SỐ 36 - THÁNG 10 NĂM 2007

 

Thơ

Đêm cuối ở Nha Trang
24
Vũ Hoàng Thư
Chiếc Taco lưu lạc

24 Phạm Hồng Ân
Viễn hoài
24
Tiểu Đỉnh
Khuýp danh

23
Ái Ưu Du
Đọc thư
21Trần Việt Bắc
Tình đã giá băng
18
Huỳnh Kim Khanh
Trang thơ cũ bản đàn xưa
18
Ngọc Trân
Paris quê hương tôi ?
18
Tôn Thất Phú Sĩ
Anh vội để một vầng thơ đâu đó
18Kim Thành
Sa Pa Việt Bắc
18Đỗ Phong Châu
Nỗi nhớ
21
Trần Hoan Trinh


Truyện ngắn, Tâm bút

Vượt trại
14
Phạm Hồng Ân
Sàigòn, Người cũ, Khoảng trống ...
14Nguyên Nhi
Tản mạn phố xưa
14Phan Thái Yên
Duyên khởi
14Cỏ Biển
Hoa tím
13
Xuân Phương
Thư tình tri ngộ
14
Ái Ưu Du
Ở đợ trần gian
15
Võ Thị Đồng Minh
Chợ Mouffetard
8Thi Vũ
Cuối ngày một lần ngồi lại
8Song Thao
Sự cô đơn và khát vọng đợi chờ trong thi phẩm Bến Đợi
8Lê Miên Khương


Văn học, biên khảo

Giao Chỉ và Tượng Quận (3)
4Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành (10)
4Ngô Văn Xuân
Phiếm luận văn chương
4Huỳnh Kim Khanh
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 23
3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Giữa hai lằn đạn
1Ái Ưu Du
Vô tình cốc - Kỳ 30
1Huỳnh Kim Khanh


 

Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam (kỳ 23)

 

Hoàng Thiếu Khanh

Thu dạ 2

Bạch lộ vi sương thu khí thâm
Giang Thành thảo mộc cộng tiêu sâm
Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ
Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm
Thiên lý giang sơn tần trướng vọng
Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm
Tảo hàn dĩ giác vô y khổ
Hà xứ không khuê thôi mộ châm

( Mốc trăng thành sương thu đã sâu( già)
Cây cỏ bên thàng ven sông thêm tiệu điều
Một mình khêu đèn chiếu khoảng đêm dài dặc
Vắt tóc bỗng lo cho chí nguyện của những ngày chót
Nghìn dặm núi sông nhìn mà buồn chán
Bốn mùa sương khói trầm ngâm một mình
Trời mới lạnh mà đã thấy nỗi khổ vì không áo
Nơi nào người thiếu phụ phòng khuê đập vải dồn dập )

          Đêm thu 2

Mốc trắng thành sương thu đã sâu
Giang thành câu cỏ nhuốm u sầu
Một mình khêu nến soi đêm vắng
Vén tóc cuối ngày dạ lo âu
Vạn dặm núi sông buốn chán quá
Bốn mùa sương khói nghĩ hồi lâu
Lạnh vừa mới chớm buồn không áo
Đập vải khuê phòng thiếu phụ đâu


Hơi thu nặng trĩu đọng sương mờ
Cây cỏ Giang Thành cũng xác xơ
Quạnh quẽ đêm dài đèn bấc lụi
Băn khoăn việc nhớ tháng ngày qua
Non sông nghìn dặm ngùi trông ngóng
Mây nước tư mùa luống ngẩn ngơ
Chớm lạnh đã hay không áo khổ
Tiếng ai nện vải bóng chiều đưa

                        ( Bản dịch Hoàng Duy Từ 1978 )

            Tạp ngâm

Đạp biến thiên nha hựu hải nha
Càn khôn tùy tại tức vi gia
Bình sinh bất khởi thương đăng niệm
Kim cổ thùy đồng bạch nghĩ oa
Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm
Tiêu diều lữ muộn đối thời ca
Bế môn bất ký xuân thâm thiển
Đản kiến đường lê lạc tận hoa

( Đi khắp chân trời lại góc biển
Trong khoảng trời đất đâu cũng là nhà
Bình sinh chưa hề nghĩ như loài ruồi nhặng
Xưa nay  ai tưởng mình cùng loài với mối
Lòng dũng sĩ lang thang làm hư hoại thanh kiếm ngắn
Nỗi kẻ xa nhà thêm tiêu điều nghe khúc nhạc đương thời
Đóng cửa không nhớ mùa xuân sâu cạn ( muộn hay sớm)
Chỉ thấy cây lê ngọt rụng hết hoa )

            Tạp ngâm

Đi khắp chân trời góc biển xa
Đất trời tùy lúc gọi là nhà
Bình sinh không nghĩ mình là nhặng
Kim cổ ai cùng giống mối kia
Lưa lạc khí hùng mòn kiếm ngắn
Tiêu điều lòng khách đối thời ca
Xuân sơ hay muộn mình dóng cửa
Chỉ thấy lê đường rụng hết hoa

            Dao vọng Càn Hải Từ

Mang mang hải thủy tiếp thiên xu
Ẩn ước cô từ xuất hải châu
Cổ mộc hàn liên phù chữ mộ
Tình yên thanh dẫn hải môn thu
Hào thiên tướng tướng đan tâm tận
Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô
Tiếu nhĩ Minh Phi trường xuất tái
Tì bà bôi tửu khuyến Thiền Vu

          Xa trông đền Cờn

( Nước biển mênh mông tiếp Bắc cực
Ngôi đền thấp thoáng đứng trơ trên bãi cát nhỏ
Buổi chiều, hàng cây cổ thu lạnh tiếp liền bãi đâu chim phù 
Mùa thu, làn khó xanh thanh thản bay ra cửa biển
Kêu trời, các tướng lòng son đã cạn
Vỗ đất, khắp Quỳnh Nhai không còn ai là cốt nhục
Thật buồn cười nàng Minh Phi ra ngoài cửa ải
Gãi đàn tì bà rót rượu mời chúa Thiền Vu

Câu chuyện này kể lại đời Tống Đô Tông. Khi mất nước, vợ vua Tống là Dương Thái Hậu cùng hai cô con gái vượt biển trốn đi, nhưng thuyền đắm khi ra ngoài cửa biển. Dân gian lập đền Cờn để thờ. Đề này thuộc huyện Quỳnh hải, tỉnh Nghệ An đời Tống.

          Xa ngắm đền Hải Từ

Miên man nước tiếp trời phương Bắc
Thấp thoáng ngôi đền giữa bãi xa
Chiều xuống hàng cây bãi chim đậu
Thu về khói biếc tỏa ngoài khơi
Kêu trời các tướng lòng son héo
Vỗ đất Quỳnh Nhai chẳng mấy người
Cười mãi Minh Phi khi xuất ải
Gãi đàn chuốc rượu chúa Thiên Vu

Trên đây là tiêu biểu những bài thơ chữ Hán do Nguyễn Du sang tác trong tập Thanh Hiên Thi Tập, giai đoạn Mười Năm Gió Bụi ( 1786-1795). 
Sau đây là những bài trích trong đoạn Dưới Chân Núi Hồng ( 1796-1802)

            Giang đình hữu cảm

Ức tích ngô ông tạ lão thì
Phiêu phiêu bồ tứ tử giang mi
Tiên chu kích thủy tần long đấu
Bảo cái phù không thụy hạc phi
Nhất tự y thường vô mịch xứ
Lưỡng dê yên thảo bất thăng bi
Bách niên đa thiểu thương tâm sự
Cận nhật Trường An đại dĩ phi

( Nhớ xưa khi cha ta cáo quan về hưu
Xe ngựa quấn cỏ bồ về bến sông này oai làm sao
Thuyền tiên ngược sóng nước như rồng thần giao đấu
Lộng quí nổi trên không như cánh hạc bay
Từ lúc áo xiêm không còn thấy nữa
Ta nhìn khói là đà trên dám cây mà cảm thấy buồn
Trăm năm những sự đời làm đau lòng khách
Gần đây Trường An đã đổi khác quá nhiều )

            Giang đình cảm tác

Từ lúc cha mình đã cáo quan
Xe bồ bốn ngựa bến sông hoan
Thuyền tiên lướt sóng rồng giao đấu
Lộng quí che trời hạc giao hoan
Từ lúc y thường không thấy nữa
Khi ta nhìn khói tỏa cây buồn
Trăm năm thế sự lòng đau thắt
Đã thấy Trường An đổi mấy phần

Giang đình là cái đình trên sông Lam, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Bồ tứ chỉ xe bốn ngựa, bánh xe quấn cỏ bồ để chạy êm, dùng chở quan thời xưa.

            Mi trung mạn hứng

Chung tử viên cầm tháo nam âm
Trang Tích bệnh trung do Việt ngâm
Tứ hải phong trần gia quốc lệ
Thập tuần lao ngục tử khinh tâm
Bình chương di hận hà thời liễu
Cô trúc cao phong bất khả tầm
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ
Hồng Sơn sơn hạ Quế giang thâm

            Cảm hứng trong tù

Chung tử gảy đàn theo điệu Nam
Trang tích khi ốm vẫn rên bằng tiếng Việt
Bốn bể phong trần rơi lệ thương nước
Mười tuần lao ngục coi sự chết như không
Biết bao giờ hận Bình Chương mới hết
Phong cách cao thượng của người Cô trúc khó mà tìm
Ta có nỗi ẩn ức khó cùng ai tâm sự
Dưới chân núi Hồng, dòng sông Quế sâu

            Cảm hứng trong tù

Chung tử gảy đàn theo điệu Nam
Chàng Trang khi bệnh khóc gia âm
Bốn phương lưu lạc sầu thương nước
Năm tháng ngục tù chết cũng cam
Mối hận Bình Chương bao giờ dứt
Cao phong Cô trúc biết đâu tìm
Lòng ta một nỗi cùng ai tỏ
Sông Quế một dòng chảy lạnh căm

( Còn tiếp)