Ngày vui qua mau.
Cảm giác ấy ngày càng rõ nét trong tôi mỗi lần “giang hồ vặt” về
vùng phố Việt miền Nam Cali. Màu nắng cuối hè lóng lánh trên
nóc những hàng cọ thẳng tắp. Ly cà phê Sài Gòn đậm đà với bạn
lính thân tình. Màu hoa “phượng” tím trong nền trời xanh ngắt
khiến lòng chợt bâng khuâng nhớ tới màu hoa lục hà trên sông,
màu đỗ quyên bên bờ suối quê nhà. Và riêng lần đi này, trong
cái nóng 38, 39 độ C, âm thanh giọng nói Quảng Nam đậm đà cùng
những khuôn mặt “lạ” của bạn bè ba mươi bốn mươi năm cũ đã đưa
tôi trở về quê nhà, giữa lòng phố xưa, trong sân trường cũ.
Trên chuyến bay đầu ngày trở lại nhà, tôi ngồi nhìn tầng mây lênh
đênh xám bạc bên ngoài khung cửa phi cơ mà lòng mãi bâng khuâng
giữa lằn ranh u uất đi về. Tiếng cười nói chuyện trò, tay bắt mặt
mừng của bạn học cũ thời trung học trong buổi dạ tiệc họp mặt đêm
qua đã sớm là nỗi nhớ. Lớp kỷ niệm tươi non chẳng đè trải lên
phiến tích đời người im tiếng mà lao xao trổi gió lay thức cả một
vùng trời phố biển dọc suốt thuở hoa niên.
Đà Nẵng, nơi cuối cùng mẹ cha đã quyết định dừng chân sau tháng
ngày dài bồng bế hồi cư. Thành phố của một lần khóc òa níu áo mẹ
buổi sáng đầu tiên đi học. Lòng run sợ đứng trước cửa lớp, quay
quắt nhìn mẹ đứng dưới bóng cây mù u từ bên kia sân trường Thạc
Gián cũng rộng mênh mông như bầu trời mùa thu bàng bạc trên cao.
Thành phố của thời mới lớn mơ hồ áo ai bay như bướm trắng rộn rã
sân trường Phan Châu Trinh, cuống quít chuyến phà qua phố.
Thành
phố có sông Hàn chảy qua. Sông lạnh mà nước xanh và biển thì quá
gần. Biển bao quanh. Đứng bên ni Hà Thân, ngó qua bên
tê Hà Thân, nước xanh như tàu lá... Đứng đó mà ngửi được
mùi biển mặn trong gió. Mùi muối nồng nàn từ Tiên Sa, Mỹ Thọ,
Mỹ Khê, Phú Lộc, Thanh Bình theo gió bay về. Dòng sông đưa người
từ biển về không dài lắm, vừa kịp để lòng vun vội vã bước chân
trên dốc Cầu Vồng, chát chát chua chua trái ổi sân chùa Bà Quảng.
Thành phố của những ngày mưa nguồn, bão biển. Gió khơi xa về
vần vũ thét gào, xé tả tơi những đám mây thấp trôi nhanh trên
nóc hàng phượng dọc bờ sông. Vùng nước bình yên cuối dòng chợt
dâng trào sóng cuộn như đại dương cuồng nộ ngoài kia. Nước nguồn.
Giọt núi rừng truyền kiếp cưu mang chợt một ngày nhớ biển kéo
nhau về đồng bằng, hiếp đáp dòng sông bình yên êm ấm đôi bờ.
Khu
xóm đạo Thanh Bồ với những con đường cát xám ngấm sũng giọt trời.
Bầy con trai tinh nghịch vin vai đạp xe hàng đôi, rủ rê nhau chọn
lối đi xa theo con-đường-có-bông-có-hoa qua Trẹm, oằn lưng đạp
xe qua con dốc bên hông Bưu Điện trễ nải đến trường.
Thành phố
của thời kỳ biến động, chiến tranh. Những thằng bạn cùng tắm một
dòng sông. Lớn lên. Có đứa bỏ đi, sôi nổi lòng trai oằn vai mối
thù vay mượn, mép rừng xó núi vào cuộc máu me giải phóng phân tranh.
Bên ni, bên tê, những đứa trẻ lớn lên, nhận chịu làm thân gạch
lót đường cho lịch sử bi thương.
Nhớ mãi buổi chiều cuối cùng trước
khi vào lính, ly cà phê Thanh-Long đắng lòng góc phố. Gió tháng
Chạp cuồng quay bên ngoài vách núi Sơn Trà u hoài ánh hải đăng
chớp tắt. Trong nhạt nhòa mưa, thành phố chợt xa vời con dốc dài
tóc xõa lối về.
Gã lính sông hồ những đêm chập chùng cuối biển hay
từ một dòng sông rất xa vẫn mãi nhớ về ánh đèn bờ vịnh phố xưa.
Nhớ về những sợi tóc mai ấp ủ thơ ngây cho mắt em đăm đắm tự tình
là ngọn hải đăng sáng hoài trong hồn anh bão lộng.
Cơn bão tình
yêu thổi suốt qua cuộc đời chung, qua cuộc bể dâu oan nghiệt chia
lìa đôi lứa. Đôi mắt tình yêu đẹp tuyệt trần buổi sáng cuối một
mùa xuân định mệnh, rưng buồn lời hẹn chờ chung thủy. Đôi mắt đã
giữ ấm lòng, mớm sức cho từng ngày tù tội. Là ánh đèn chong rực
sáng chân trời tự do phía ngoài, bỏ lại sau lưng vùng cửa biển
u hoài, vần vũ triền miên cơn hồng thủy tai ương đã hủy diệt đảo
lộn tất cả giá trị và cuộc sống bình yên của con người...
Trong tiếng động cơ rập rềnh ngái ngủ, tôi loay hoay với những
ý nghĩ buồn vui.
Nghĩ tới hai người lính già HO đánh cờ tướng trong khu thương xá
Phước Lộc Thọ. Họ ngồi trầm ngâm giữa khu phố chợ bán mua nhộn
nhịp, bên mấy ly trà đá đã cạn từ lâu. Nghĩ tới những đứa bé tung
tăng theo cha mẹ mua sắm cho niên học sắp đến. Nghĩ tới tấm hình
vị linh mục đang bị lao tù trong nước vì đấu tranh cho dân mình
có được quyền lên tiếng nói nhân bản tự do. Nghĩ tới cái dũng của
vị Đại Lão Hòa Thượng đang đứng cùng dân oan khiếu kiện, kêu gọi
nhân quyền, xem “ngục thất dầu sôi thành cam lộ, lao tù lửa bỏng
hóa hồng liên”. Nghĩ tới lòng can đảm và nỗi cô đơn của số ít người
như các vị chân tu, những người đang hi sinh tuổi thanh xuân trong
lao tù, mà cảm nghe lòng mình hổ thẹn.
Giữa lòng dân tộc đọa đày,
con người vẫn chưa hoàn hồn về năm tháng kiệt quệ đói khổ nên
đầu tắt mặt tối mưu sinh giữ lấy nồi cơm trắng và cho cuộc sống
riêng mình ngày càng khá hơn. Từng viên gạch lót đường về phương
nhân bản tình người đang được từng bước bước lên mà có ai hay?
Tôi không muốn nghĩ vậy. Tôi muốn nghĩ tới một ngày những người-Việt-cao-quý
đó sẽ không còn cô đơn. Và như thế, sự hy sinh cao cả sẽ được tìm
thấy và biết ơn...
Phan Thái Yên
|