Trích tập truyện "Những Chặng Đời"
Mở cửa bước vào nhà, treo chùm chìa khóa lên một cái móc nhỏ cạnh
cầu thang gác, Thảo thong thả vào bếp rót một ly nước mát và đến
máy điện thoại xem có ai nhắn gì không. Đó là thói quen của Thảo
mỗi buổi chiều đi làm về. Hôm nay, nghe xong lời nhắn Thảo hốt hoảng
tìm ngay tờ báo. Nàng mở vội ra và dán mắt vào trang cáo phó. Mắt
nàng như mờ đi trước những dòng chữ vô tình nghiệt ngã:
" Bà quả phụ Anna Mary Johnson, 81 tuổi, ngụ tại.....chết
ngày....tháng....năm....được mai táng bởi ba con trai, một con gái
và bảy cháu nội, ngoại. Sinh thời, bà từng tham gia các công tác
từ thiện tại địa phương, lập quỹ cứu trợ người tị nạn Đông nam á...."
Đọc đến đây, Thảo biết nàng không còn lầm nữa. Mắt Thảo cay sè,
nàng thẫn thờ buông rơi tờ báo và chìm vào khung trời ký ức xa xưa....
Buổi chiều cuối hè của hơn mười tám năm về trước, một người đàn
bà Việt Nam còn rất trẻ, dáng người nhỏ nhắn, có đôi mắt biết nói
cũng như biết cười, khoác trên vai một túi xách nhỏ, hai tay dắt
bốn đứa con từ trên chiếc Boeing đổ khách xuống phi trường Kennedy,
thành phố New York.
Người thiếu phụ và bốn con, hai trai, hai gái bước từng bước dọc
theo hành lang của phi trường theo bảng chỉ dẫn về phía lấy hành
lý. Nói là hành lý cho nó sang chứ thật ra mẹ con nàng mỗi người
chỉ có vài bộ quần mà nàng mang theo cho các con thay đổi. Những
bộ áo quần này do nàng sửa lại từ những chiếc áo đầm viện trợ trong
trại tị nạn ở Galang.
Người thiếu phụ ngơ ngác vừa đi vừa nhắc chừng các con cầm tay
nhau kẻo lạc. Nét mặt nàng có vẻ buồn và lo lắng. Bất chợt, nàng
dừng hẳn lại, quay nhìn về phía sau như thể muốn ghi lại cho mình
một hình ảnh nào đó trước khi bước những bước nhanh hơn và cũng
cương quyết hơn.
Người thiếu phụ ấy là Thảo và bốn đứa trẻ là đám con nàng. Lớn
nhất, Tâm Hảo, chín tuổi, Ý Hảo, lên bảy, Tuấn lên sáu và nhỏ nhất
là Năng, năm tuổi. Khác với anh chị, cu Năng ồn ào nhất nhà, Cậu
có đôi mắt to, đen, chiếc miệng rộng, hay cười. Nhưng hôm nay, trước
khung cảnh mới, cu cậu khép nép đi bên cạnh mẹ, đưa đôi mắt thơ
ngây ngơ ngác quan sát sự náo nhiệt lạ lẫm xung quanh.
Cuối hành lang, gần những trạm khám hành lý của hành khách trước
khi lên máy bay là những bậc thang dẫn xuống tầng dưới để nhận hành
lý của khách mới tới. Đứng từ trên nhìn xuống, Thảo thấy nhiều người
đứng chờ đợi thân nhân. Một vài người cầm bảng bằng giấy cứng, có
tên người họ đón. Thảo nghĩ, đón người mà phải cầm bảng tên thế,
chắc là chưa biết mặt. Có thể họ đón người tị nạn như mình. Thảo
nhìn quanh một vòng. Trong đám người ấy , Thảo thấy một nhóm bốn
người đứng cạnh nhau và hình như họ đang chăm chú nhìn về phía mẹ
con nàng. Không hiểu tại sao, Thảo để ý đến một người trong nhóm.
Đó là một người đàn bà độ ngoài 60, có mái tóc ngắn màu bạch kim,
tay cũng cầm một cái bảng bằng giấy bià cứng có chữ nhưng vì xa,
nàng không đọc rõ. Bên cạnh bà là một người đàn bà trẻ hơn. Người
này đang ghé vào tai người đàn ông có chiếc bụng to, đầu hói gần
hết tóc như thể đang nói nhỏ câu gì.
Cùng lúc đó, một người đàn ông Á Đông duy nhất trong bọn tách ra,
đi về phía Thảo. Khi nàng rời bực thang cuối cùng thì cũng là lúc
người đàn ông Việt nam trên ngực có đeo một bảng tên nhỏ, có tên
anh và tên của cơ quan thiện nguyện đến trước mặt nàng, anh cười
vui vẻ:
- Chào chị Thảo. Tôi là người làm trong hội được cử đi đón chị.
Đường xa, chị và các cháu có mệt lắm không ?
Thảo nhìn thật nhanh bảng tên trên ngực người đàn ông:
- Chào anh Bách. Dạ, cũng không mệt lắm. Cảm ơn anh. Chào bác
đi, các con.
Bách cười nhìn lũ trẻ, anh đưa tay xoa đầu cu Năng. Ba người Mỹ
cùng nhóm với Bách lúc này cũng tiến đến trước mặt Thảo. Bách giới
thiệu với nàng:
- Đây là bà Anna, bà Kathy và ông Tom, hai em của bà. Chị và
các cháu tới trong lúc ông bà Sam và Beth, người bảo trợ cho chị
đi nghỉ mát nên bà Anna tình nguyện đi đón gia đình chị. Bà Anna
còn rủ cả hai em bà đi nữa cho vuị
Thảo khẽ gật đầu chào ba người Mỹ và nhìn Bách lo ngại. Với tâm
trạng của một người tị nạn từ phương xa mới tới, nhất là có bốn
đứa con nhỏ như nàng, vắng người bảo trợ, nàng chẳng biết sẽ phải
làm gì và đối phó ra sao trong những ngày đầu của cuộc sống mới..
Nàng chưa biết nói gì thì bà Anna cười thân mật nhìn Thảo và nói
thật chậm:
- Chào cô Thảo. Tôi là Annạ Con cô đẹp quá. Tôi cũng có bốn con
như cô vậy. Ba trai, một gái. Đã một lần chúng nó cũng bé như
con cô bây giờ đó.
Bà khom xuống nhìn lũ trẻ con, vui vẻ chỉ vào từng đứa một:
- Để tôi đoán nhé, Tâm Hảo này, Ý Hảo này, Tuấn và Năng nữa phải
không ? À, lại với dì Kathy đi, dì Kathy có quà cho các cháu đấy!
Lũ trẻ ngơ ngác không hiểu bà Anna nói gì nhưng khi bà chỉ vào
từng đứa thì bọn trẻ nhìn nhau cười bẽn lẽn. Bách nói với đám con
nàng:
- Các cháu có thích quà không? Mấy bà Mỹ đem quà cho các cháu
đó!
Bà Kathy có dáng người dỏng cao, tóc và mắt màu hạt dẻ, cười hiền
hậu, lấy quà trong bao ni lông ra đưa cho từng đứa:
- Đây con búp bê này của Tâm Hảo. Con này của Ý Hảo. Chiếc xe
cứu hỏa này của Tuấn còn con gấu nhồi bông này của little Năng.
Đồ chơi này có đẹp không? Các cháu có thích không?
Lũ trẻ e dè nhìn người lạ và chẳng hiểu họ nói gì nên cứ bám chặt
hai tay mẹ. Bé Năng dù dạn dĩ nhất, nhìn con gấu bà Kathy đưa vào
tay mình thì thích lắm nhưng cũng chỉ lấm lét nhìn chứ không dám
nhận. Giọng Bách nhẹ nhàng:
- Chị Thảo cho các cháu nhận quà đi rồi mình còn lại đằng kia
lấy hành lý.
Thảo như sực tỉnh và định lại được vị trí của mình, nàng hấp tấp
bảo con:
- Họ cho quà các con đấy. Cầm lấy và cảm ơn họ đi con!
Từng bàn tay bé nhỏ đưa ra đỡ lấy những món quà quý hóa mà từ lâu
lắm các con nàng không nhìn thấy và Thảo thì không dám mơ là nàng
sẽ mua được cho con. Ôi, những con búp bê xinh đẹp biết nhắm mắt,
mở mắt và mặc áo đầm đẹp đẽ này, chiếc xe cứu hỏa và con gấu nhồi
bông kia ở một khoảng địa cầu khốn khổ nào đó đã là những giấc mơ
thần tiên của trẻ thợ
- Cảm ơn bà!
- Cảm ơn !
- Cháu cảm ơn!
Bách cười nhìn lũ trẻ và dịch lại những tiếng "cảm ơn"
ra Anh ngữ. Qua làn nước mắt mỏng, Thảo mơ hồ nhìn thấy những ánh
mắt hài lòng trên khuôn mặt hai người đàn bà xa lạ.
Lâu lắm rồi, ngày mà Tâm Hảo được ba tuổi, Lâm, chồng nàng còn
là một sĩ quan và nàng còn là một cô giáo dạy ở trường tiểu học,
Thảo nhớ đó là lần cuối nàng đi mua đồ chơi cho con. Năm năm qua,
một mình nàng tất bật lo nuôi con, lo tiếp tế chồng tù cải tạo.
Tinh thần mệt mỏi, vật chất thiếu thốn thì làm sao mà nàng dám mơ
đến đồ chơi, dù lắm khi thương con đứt ruột.
Nhìn lũ trẻ tay ôm chặt món đồ chơi mới, nét mặt rạng rỡ hẳn ra,
mắt sáng lên hạnh phúc, Thảo vừa thương con, vừa tủi thân, vừa cảm
động, nàng chỉ lí nhí được hai chữ "thank you!"
Tom, người đàn ông từ nãy giờ im lặng theo dõi mọi diễn biến, quay
sang nói với bà Anna:
- Đèn báo hiệu. Để tôi đi lấy hành lý cho mẹ con cô ấy.
Ông quay nhìn Thảo:
- Hành lý cô có những gì?
Thảo nhớ tới chiếc valy độc nhất nàng mua được trước khi đi định
cư, nói với Bách:
- Nhờ anh Bách nói lại với ông Tom là chúng tôi chỉ có một chiếc
valy màu nâu có tên tôi và buộc một rẻo vải đỏ nơi tay sách.
Trước khi đưa mẹ con nàng về nơi tạm trú, bà Anna đề nghị đưa lũ
trẻ đến Burger King. Thảo nhớ đó là lần đầu mẹ con nàng làm quen
với món hamburger của Mỹ.
Trong khi chờ đợi vợ chồng ông Sam đi nghỉ mát về, Ông Tom đã thu
xếp với cha xứ và họ đạo cho mẹ con Thảo ở tạm hai phòng trống trong
một ngôi nhà rộng rãi của nhà thờ. Căn nhà lớn, có rất nhiều phòng,
vừa dùng để họp hành, giữ trẻ, vừa là nơi chứa quần áo cũ và các
vật dụng do giáo dân đem đến để từ đó, được gởi đi giúp người nghèo
và các hội từ thiện.
Bà Anna thường ghé thăm và đem cho mẹ con Thảo những thứ cần thiết.
Bà đem cả sách Anh ngữ cho Thảo học, sách tô hình cho con nàng và
bà hay ở lại hằng giờ để kiên nhẫn nghe Thảo nói từng câu và dạy
Thảo phải uốn lưỡi thế nào cho đúng giọng.
Ngày chủ nhật đầu tiên, sau khi tan lễ, bà dẫn mẹ con nàng ra phố,
khi chọn cho mỗi người một bộ đồ lót mùa Đông, bà nói:
- Bây giờ cuối tháng Tám, trời còn dễ chịu, nhưng chỉ ít tuần
nữa thôi sẽ lạnh đấy. Năm nay có thể lạnh sớm hơn. Cô đến từ một
nước nhiệt đới, đây là mùa Đông đầu tiên ở vùng hàn đới, chắc
cô và trẻ con sẽ khó chịu lắm. Đừng lo, trẻ con khi đi học, cứ
cho mặc những bộ đồ lót này vào thì đủ ấm.
Cứ dăm ngày bà Anna lại đưa nàng đi giặt giũ ở tiệm giặt công cộng.
Bà chỉ cho Thảo cách đổi tiền lẻ ở cái máy đổi tiền và cách bỏ tiền
vào máy giặt. Thỉnh thoảng bà lại dúi vào tay nàng vài chục và bảo
giữ lấy mà mua quà cho lũ nhỏ. Ngày nào bà bận không đến được, Thảo
cảm thấy như thiêu thiếu một cái gì.
Hai tuần sau thì vợ chồng ông Sam về tới. Ngay ngày hôm sau, họ
nhóm một buổi họp độ dăm người, có bà Anna tham dự. Đó là cuộc bàn
thảo để giúp mẹ con nàng ổn định đời sống mới. Giọng ông Sam trầm
và đều đặn:
- Khi xem hồ sơ của cô ấy, thấy xưa cô ta biết ít nhiều về y
tế nên Beth và tôi thấy rằng chúng tôi có thể giúp cô ấy có công
ăn việc làm ở ngay cái nursing home mà chúng tôi làm chủ. Ở đó,
cô sẽ có cơ hội thể hiện lòng nhân ái của cô như giúp đỡ những
người già, lo cho họ miếng ăn, giấc ngủ. Chúng tôi sẽ trả lương
cho cô ba đồng một giờ. Như vậy mỗi tuần cô sẽ có 120 đô , một
tháng trung bình là 480 đô la, chưa kể những tháng có năm tuần....
Bà Beth thêm vào:
- Người Việt Nam họ cần kiệm chứ không tiêu xài như mình nên
với số tiền 480 đô la một tháng như thế, mẹ con cô sẽ có một cuộc
sống ổn định. Hơn nữa, tiền mướn nhà ở vùng ấy khá rẻ. Người Á
Đông lại chăm làm việc, họ không đi nghỉ mát thường như người
mình, tuy nhiên, cô ấy vẫn có hai tuần nghỉ phép. Nếu không nghỉ,
thì cô ấy sẽ được thêm tiền.
Mọi người nhìn Thảo để chờ phản ứng. Chân ướt chân ráo, Thảo đâu
biết nursing home như thế nào và làm việc ở đấy thì phải làm những
việc gì. Thảo cũng không biết là tiền lương 3 đồng một giờ là nhiều
hay ít. Trong thâm tâm, nàng chỉ mong có việc làm để nuôi bầy con,
cho con ăn học nên người như nàng hằng mong muốn. Dù có cực khổ
đến mấy thì cũng chỉ là cái cực khổ của thân xác chứ không phải
nỗi đày đọa của tinh thần như đời sống ở quê nhà dưới chế độ Cộng
Sản được. Nghĩ thế, Thảo gật đầu đồng ý. Bỗng bà Anna lên tiếng:
- Tôi nghĩ rằng trước khi nhận việc làm, chúng ta nên đưa cô
Thảo đi thăm nursing home một lần để cô ấy có một khái niệm về
công việc của cô ta đã.
- Cũng được - ông Sam nói - nhưng tôi bận lắm. Nursing home lại
cách đây tới năm tiếng lái xe nên không biết rằng tôi có thể đưa
cô ấy đi được không. Có thể vợ tôi sẽ có thì giờ.....
Bà Beth vội vàng:
- Tôi hả? Tôi cũng bận lắm.Thời giờ của tôi được xếp đặt trong
thời khóa biểu và tôi làm việc theo thời khóa biểu của tôi. Nếu
vì một lý do gì đó mà tôi phải làm khác đi thì tôi lại phải mất
thật nhiều thời gian để sắp xếp lại. Tôi lại không thích điều
đó.
Ngừng một chút, bà tiếp:
- Trong thời khóa biểu của tôi, chỉ có thời gian đưa cô ấy đi
nhận việc chứ không có thời gian đưa đi thăm như thế.
Bà Anna cười dễ dãi:
- Không sao, Beth, nếu bà bận thì tôi có thể đưa cô ấy đi, nhưng
nếu một tuần cô ấy làm 40 giờ, mỗi chiều lũ trẻ đi học về và những
ngày lễ nghỉ hay cuối tuần thì saỏ Những giờ đó, cô phải mướn
người coi con. Con cô còn trong tuổi chưa thể để ở nhà mà không
có người lớn giám sát. Lương cô ba đồng một giờ chưa trừ thuế,
còn tiền baby-sit thì rẻ cũng hai đồng, ấy là chưa kể tới bốn
đứa.
Bà Beth chậm rãi từng tiếng một:
- Chúng tôi đã nghĩ đến điều đó. Những ngày thường, cô ta có
thể về sớm một chút với trẻ con. Cô làm bù vào những ngày lễ nghỉ
hay cuối tuần. Ngày lễ và cuối tuần, cô có thể cho trẻ con đi
theọ Chúng tôi đã nói với người quản lý của chúng tôi rồi. Nhà
bếp rộng, có một phòng nhỏ, trẻ con có thể chơi hay đem sách đi
học ở đó. Nếu thích, hai đứa con gái lớn có thể giúp những việc
vặt để không cảm thấy nhàm chán. Còn thuế là bổn phận, ai cũng
phải đóng nhưng cô ấy đông con thế, cuối năm sẽ lấy lại chứ mất
đi đâu!
- Cũng tốt. Nhưng để tôi đưa cô ấy đi xem đã.
Ngay sáng hôm sau, bà Anna lái xe đưa mẹ con Thảo đến Happy Homẹ
Hình như bà có chuyện gì suy nghĩ nên nói rất ít.
Happy Home là một khu nhà hai tầng đẹp đẽ, gồm năm chục phòng hai
giường và một trăm phòng một giường được xây theo hình chữ U trên
một miếng đất rộng có cây cao bóng mát và trồng nhiều hoạ Bãi đậu
xe ở bên tay phải và một vườn hoa lớn rất đẹp, trồng tỉa công phu
ở ngay giữa khuôn viên. Chung quanh vườn hoa, dưới bóng cây mát,
có những bàn ghế bằng xi măng, sạch sẽ và đẹp mắt. Vòng ngoài, chạy
quanh theo khu nhà cũng là những khóm hoa và bãi cỏ lớn được cắt
xén gọn gàng. Con đường trải nhựa mịn màng lớn đủ cho xe chạy hai
chiều viền quanh vườn hoa và nối liền vườn hoa với những bậc thềm.
Dọc theo hành lang dẫn đến cửa chính của phòng hành chánh, Thảo
thấy một bà già đầu tóc được chải gọn gàng ngồi im lìm trên xe lăn,
mắt bà nhắm lại như đang ngủ, đầu nghiêng sang một bên, trông bà
giống hình nộm hơn là người thật. Gần vườn hoa, hai ông già ngồi
chung trên một chiếc ghế dài nhưng mỗi người nhìn về một hướng và
chẳng ai nói chuyện với ai, một người phì phèo điếu thuốc còn người
kia thì ngồi im như pho tượng gỗ. Gần cửa văn phòng, một bà cụ chắc
phải già lắm, người bà bé choắt lại như một đứa trẻ chín, mười tuổi.
Tóc bà còn vài sợi lơ thơ không đủ che kín màu da ửng hồng bóng
loáng trên chiếc đầu tròn. Dù đã thấy nhiều người già nhưng chưa
bao giờ Thảo thấy một người già nào già và da dẻ nhăn nheo quá như
vậy. Bà cụ ngồi im, hai vai rũ xuống như chứng tích của một thời
chịu đựng. Một dòng nước dãi từ bên khóe miệng chảy dài xuống tận
cằm. Vài con ruồi vo ve đáp xuống rồi lại bay quanh cũng chẳng làm
bà cụ bận tâm. Tạo vật hình như không còn có nghĩa trong đôi mắt
như nhìn về một cõi nào xa xôi lắm của bà.
Được gọi điện thoại báo trước, ông David, quản lý Happy Home vui
vẻ đón mọi người ngay trước cửa văn phòng. Ông dẫn bà Anna và Thảo
đi thăm dãy phòng phía trái, còn gọi là khu C101. Khu này có tất
cả hai mươi lăm phòng. Thảo thấy người và cảnh mỗi phòng thay đổi
khác nhau như từng vở kịch.
Có người nhìn đoàn người cười và chào hỏi hiền lành, thân thiện.
Có người ngồi quay mặt vào vách nói chuyện thì thầm với chính mình,
chẳng thèm để ý tới aị Có người ngồi đếm đi đếm lại từng chấn song
cửa sổ. . Có người ngồi khóc tỉ tê không ai dỗ được. Thảo sợ và
buồn nhất khi thấy một người đàn ông la hét om sòm không chịu mặc
quần áo và cãi nhau với người điều dưỡng.
Hình ảnh những nhân vật sống mà Thảo nhìn thấy thật tương phản
với cái tên, với sự nguy nga đẹp đẽ của khu nhà và vẻ tươi đẹp của
vườn hoạ Thảo bước từng bước nặng nề, lòng buồn khôn tả và cảm thấy
như không còn sinh khí. Cơn chóng mặt bỗng đến và giọng nàng sũng
nước:
- Anna, ta về thôi. Tôi xin lỗi. Tôi nghĩ là tôi không thể làm
việc được ở đây. Hình ảnh của nơi này làm tôi càng buồn hơn nữa,
trong khi lòng tôi thì đã buồn lắm rồi!
Đám con nàng đi sát vào mẹ, mấy đứa lớn không nói gì, chỉ có Bé
Năng níu tay Thảo thì thầm:
- Mẹ ơi, đi về đi mẹ. Nhìn những người này, con sợ quá!
Bà Anna tuy không hiểu Năng nói gì nhưng nhìn thái độ sợ sệt lũ
trẻ, bà đoán biết. Bà vuốt tóc Năng rồi nhìn Thảo cảm thông:
- Thảo, đó là mục đích của tôi. Tôi đưa cô đi để cô thấy rõ sức
mình. Hơn nữa, nếu có làm, cô bé nhỏ thế, tôi ngại cô không đủ
sức dìu ẵm, nâng dắt những người này đâu. Tôi thấy hầu như ai
cũng to con hơn cô cả.
Ông David, giơ tay chào mọi người trước khi bà Anna dắt lũ trẻ
ra xẹ
Trên đường về, Thảo buồn và lo lắng. Từ ngày 30/4/75 đến nay cuộc
sống của mẹ con nàng vất vả quá. Nàng thở dài khi nghĩ đến sự không
vui của người bảo trợ khi biết nàng từ chối công việc mà họ giúp
đỡ nàng. Dắt bầy con vượt biên, nàng đã chuẩn bị cho mình một tinh
thần để đối phó nếu gặp hải tặc, nếu tàu bị lạc, bị chìm và mọi
sự khổ cực khác nhưng chưa bao giờ nàng chuẩn bị tinh thần để làm
nhân chứng cho cuộc sống buồn tẻ, thiếu sinh khí của những người
già ở nursing home trong những ngày cuối của đời người. Bỗng bà
Anna kéo nàng ra khỏi cơn mơ:
- Để xem Sam và Beth tính cho cô như thế nào, sau đó, tôi mới
có thể nhúng tay vào được. Dù sao, họ cũng là những người đầu
tiên có ý kiến và làm mọi thủ tục để đưa cô đến đây.
Hôm sau Thảo nghe bà Anna nói với bà Beth ở phòng bên cạnh:
- Không phải là cô ấy không thích làm việc ở Happy Homẹ Có thể
là một thời gian saụ Còn hiện tại, tôi nghĩ, hoàn cảnh cô ấy không
mấy gì vuị Đã mất quê hương lại xa chồng. Nhà cửa cũng mất sạch.
Một mình với bốn đứa con nhỏ, đến đây không bà con thân thích,
không tiền bạc. Cô ấy cần có một thời gian để nguôi ngoai chuyện
buồn riêng và thích ứng với đời sống mới trước đã.
- Chúng tôi nghĩ rằng công việc ở nursing home hợp với cô ấy nên
giúp mà bảo trợ để cho cô ấy công ăn việc làm. Nếu cô ấy không
thích thì chúng tôi không biết cách nào giúp cô ấy nữa. Chúng
tôi không chủ trương bảo lãnh cô ấy về đây rồi giao lại cho sở
an sinh xã hội.
Bà Anna vẫn ôn tồn:
- Tôi đã nói rồi. Không phải là cô ấy không muốn làm việc. Nhưng
làm việc ở nursing home là một việc làm chưa thích hợp với cô
ấy trong lúc này. Chúng ta hãy nghĩ đến hoàn cảnh và tâm tư tình
cảm của cô ấy một chút.
Tiếng bà Beth giận hờn:
- Anna, Ai cũng phải làm việc để sống. Có sống mới có tâm tư
tình cảm. Hay là bà giúp cô ấy vậy. Bà có vẻ hiểu biết nhiều về
người Á Đông đấy!
Hình như chỉ chờ có thế, Thảo thấy tiếng bà Anna nhẹ nhàng:
- Nếu bà và Sam muốn tôi giúp mẹ con cô ấy thì tôi sẵn sàng.
Thôi, chuyện của mẹ con họ thế là tạm ổn. Tôi sẽ nhờ các em tôi
góp một taỵ
Một tuần sau Thảo và các con dọn đến một căn phố có hai phòng ngủ.
BàAnna trả tiền nhà, ông Tom giúp nàng thực phẩm. Quần áo thì bà
Anna xin đồ cũ ở nhà thờ. Trong tuần, bà ghi tên cho nàng học Anh
văn và kế toán tại một trường Đại Học Cộng Đồng. Bà tự tay sắp xếp
thời khóa biểu để khi lũ trẻ tan trường thì nàng cũng vừa có mặt
ở nhà. Cuối tuần, bà Anna đưa các con nàng đến chơi chung với lũ
cháu bà và nàng làm việc ở nhà hàng ăn của ông Tom. Tiền lương làm
được thì nàng trang trải tiền điện, tiền điện thoại và các thứ vặt
vãnh khác. Nàng tiện tặn và dành dụm nên cứ vài ba tháng, nàng lại
gởi được vài gói quà nhỏ, mỗi gói một kg. về cho anh chị nàng còn
ở VN.
Cuộc sống người tị nạn thế cũng tạm yên. Người đến thăm mẹ con
nàng thường nhất là bà Annạ Có một lần bà tâm sự:
- Ngay phút đầu gặp cô, tôi nhớ lại chuyện của gia đình tôi mấy
chục năm về trước. Mẹ tôi kể, ngày ấy tôi còn bé lắm, còn phải
ẵm trên taỵ Chúng tôi từ nước Ý di cư đến đây. Cha mẹ tôi có tới
sáu người con. Hoàn cảnh giống như gia đình cô bây giờ, chỉ khác
là gia đình chúng tôi có đầy đủ cha mẹ anh em bà con để chia xẻ
với nhau mọi nỗi nhọc nhằn, còn cô chỉ có một mình.
Ngừng một chút như để sống cho hồi tưởng, bà tiếp:
- Tôi lấy chồng sớm lắm. 18 tuổi. Chồng tôi là một người đàn
ông rất tốt. Chúng tôi sống rất hạnh phúc và có với nhau bốn đứa
con. Khi chồng tôi qua đời vì bịnh tim, tôi cũng sống một mình
với các con tôi nên khi thấy cô và bốn đứa trẻ tôi không khỏi
nhớ lại hoàn cảnh tôi ngày đó. Có điều, tôi may mắn hơn là chồng
tôi để lại cho tôi một gia tài khá lớn nên tôi không phải lo lắng
về sinh kế. Thôi, cô chịu khó đi học một thời gian, học xong,
kiếm việc làm tốt hơn và nhiều tiền hơn, lúc đó cô sẽ đỡ khổ.
Vả lại, không lâu đâu, con cô sẽ lớn, chúng nó sẽ giúp cộ
Thảo còn nhớ rõ nét mặt vui mừng của bà Anna trong ngày nàng ra
trường. Càng khó quên hơn nữa khi nàng cho bà hay là nàng đã xin
được chân kế toán trong một hãng buôn. Ít tháng sau, Thảo mua được
một chiếc xe cũ nhưng còn tốt, tự túc trả tiền nhà và nàng cũng
dọn đến một căn nhà rộng rãi hơn.
Trong những năm qua, Thảo thấy các con nàng lớn lên cùng chiều
với những tình cảm đặc biệt mà bà Anna dành cho mẹ con nàng và ngược
lại. Bà thương lũ trẻ như thương các cháu của bà. Những ngày sinh
nhật của lũ nhỏ cũng như những ngày lễ Giáng sinh, các con nàng
đều có quà và quần áo mới. Thảo còn nhớ ngày lễ Giáng sinh đầu tiên
, bà Anna ôm một gói quà lớn đến cho lũ trẻ đúng khi nàng đang ngồi
khóc. Nàng khóc vì nhớ nhà, nhớ đến những ngày lễ ngày tết sum họp
đầm ấm ở quê hương. Nàng khóc vì trong khung cảnh rộn rã vui tươi
của xứ người, lòng kẻ tha hương càng cảm thấy tủi thân, bơ vơ lạc
lõng hơn bao giờ hết. Thấy Thảo khóc, bà hiểu ngay lý do, nói như
tự trách:
- Thảo, tôi hiểu cô lắm. Đôi khi, nước mắt là thần dược. Xưa,
sau khi chồng tôi chết, dù có cha mẹ anh em bên cạnh và đầy đủ
bạc tiền nhưng tôi vẫn buồn khổ và thỉnh thoảng vẫn khóc như cộ
Nhất là những ngày lễ mà mọi người chung quanh vui vẻ như thế
này. Nhưng tệ thật, tại sao tôi lại không nghĩ đến điều đó nhỉ.
Từ đó, trong những ngày lễ, tết, bà Anna tế nhị sắp xếp bằng mọi
cách để Thảo phải cho con đến với gia đình bà. Khi thì bà bảo là
đến để giúp bà đi chợ, khi thì phụ bà nấu ăn. Lúc thì giúp bà chọn
kiểu, chọn màu trang trí lại những tấm màn cửa. Vì bận rộn phụ bà,
nàng không còn có thì giờ ngồi một mình gậm nhấm nỗi buồn. Nhờ thế,
trong những ngày lễ lớn nơi quê người, mẹ con nàng cảm thấy bớt
bơ vợ
Nghĩ đến đây Thảo lại khóc nấc lên. Nàng đứng lên đi về phía kệ
sách lấy tấm khăn giấy lau nước mắt. Trên kệ sách của các con, Thảo
nhìn thấy một tấm hình chụp gia đình nàng ngày mới đến trong phòng
mạch bác sĩ, lúc bà Anna đưa các con nàng đến khám sức khỏe tổng
quát trước ngày nhập học. Trong tấm hình, cu Năng còn nhỏ xíu, ngồi
cạnh bà Anna, miệng cười toe toét, tay cầm con gấu nhồi bông mà
bà Kathy cho nó hôm mới đến phi trường. Cạnh đó, một tấm hình gia
đình khác, cách đây hơn sáu năm, trước khi bà Anna nằm bịnh. Trong
tấm hình, cu Năng với mũ áo và khuôn mặt rạng rỡ của ngày ra trường
lớp 12. Đứng bên là bà Annạ Bà đang cười, nụ cười đầy tình người,
bao dung và thánh thiện. Trong mười tám năm lưu lạc của mẹ con nàng,
bà Anna là hiện thân của lòng nhân ái không phân biên giới. Những
năm đó, với Thảo, bà là cái phao, là bông hồng, là bóng mát, là
nguồn an ủi, là....Thảo không còn kềm được nữa và nàng cũng cảm
thấy không cần phải giấu giếm tình cảm thiêng liêng tự đáy lòng.
Nàng úp mặt vào hai bàn tay mặc cho thương tiếc dâng cao và nàng
khóc thật ngon lành. Ba mươi năm về trước, ngày mẹ nàng qua đời,
đó là lần đầu tiên nàng biết thế nào là đau khổ và đã khóc cho sự
mất mát đau thương. Từ đó, đã bao lần nàng phải khóc. Nàng khóc
ngày đưa thân phụ về với đất. Nàng khóc vào buổi trưa ngày 30/4
khi nghe từ đài phát thanh ông Dương Văn Minh ra lệnh buông súng
đầu hàng. Khi tiễn chồng đi tù cải tạo ở trại tập trung nàng cũng
khóc. Nàng khóc trong đêm âm thầm từ biệt quê hương để dẫn đàn con
lao vào trùng dương thách đố với tử thần. Nàng khóc cả trong những
ngày bình an trên đất Mỹ khi nhớ về quê hương còn đầy bất hạnh.
Cũng với tâm trạng mất mát đau thương, hôm nay Thảo đã khóc và gọi
tên bà Anna qua những tiếng nấc nghẹn ngào. Một lần nữa, những giọt
nước mắt lưu ly lại chan hòa trên mắt người thiếu phụ nhưng lần
này cho một người đàn bà không cùng chủng tộc, không cùng màu da
nhưng lại có một trái tim thắm đượm tình người và không phân chia
biên giới.
Ngô Minh Hằng
|