XUÂN ẤT DẬU SỐ 25 - THÁNG 1, NĂM 2005

 

Thơ
Chiều mưa trên đèo Hải Vân
Phan Thái Yên
Lăng kính tình yêu
NNguon
Chiều
Lam Quỳnh
Bài thơ nhỏ
Hoàng Du Thụy
Người và Thượng Đế
Nguyễn Xuân Vời
Biển vọng
Trần Hoan Trinh
Đón Xuân
Ngọc Trân
Mùa Xuân cỏ thức
Tóc Tím
Xuân ý
Huỳnh Kim Khanh
Tết này em có về cố xứ
Phạm Hồng Ân
Túy ca
Trần Việt Bắc
Rồi mùa Xuân đến
Tôn Thất Phú Sĩ
Xuân cứ về
Đường Sơn
Ô mai
Maihoado
Chờ
Vũ Hoàng Thư

Truyện ngắn, Tâm bút
Một thoáng chiêm bao
Nguyễn Ngọ - T.H.
Sen tàn trong đại nội
Nguyên Nhi
Tản văn cuối năm
Phan THái Yên
Bến cũ chiều nay
Tôn Nữ Quỳnh Diêu
Quà đầu tiên
Nguyễn Hồng Quang
Tết trước tết
Song Thao
Hồi xuân
Cỏ Biển
Tản mạn về năm Ất Dậu
Trương Thanh Diễm Thùy
Hành trình về với tuổi đôi mươi
Hoàng Quốc Việt
Giọt nước mắt lưu ly
Ngô Minh Hằng

Dịch thuật, biên khảo
Kẻ biểu diễn tuyệt thực
U MIên
Việc phong hoàng hậu
Trần Việt Bắc
Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 12
Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài
Thằng Nèm
Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Kỳ 19
Huỳnh Kim Khanh


 

Sen tàn trong Đại Nội

 

Một

1974. Chiến hạm từ Hoàng Sa ghé về Sơn Chà nhằm những ngày bão. Năm đó bão dữ! Bão hung hãn đổ bộ miền Trung, tàn phá cả một vùng duyên hải, cắt quốc lộ một, quãng đèo Hải Vân. Con đường Đà Nẵng- Huế bị gián đoạn. Dự định lên Huế trong những ngày nghỉ bến không thành. Mối tình tôi, một thằng trai Nam Kỳ, với Huế, chưa kịp tỏ bày, bỗng nhiên trắc trở.

Từ không biết thuở nào, Huế yêu kiều trong tôi là những thành quách kỳ vĩ, cung điện nguy nga, đền đài miếu mạo lộng lẫy, những cổ tự tịch mạc, lăng tẩm u trầm, những thắng tích thiên nhiên ngoạn mục, theo lời kể của nhũng thủy thủ cùng tàu, người xứ Huế. Trấn Bình Thành án ngữ đường sông, Trấn Hải Thành án ngữ mặt biển, Hải Vân Quan trấn giữ phía nam như còn vang vọng tiếng súng thần công từ pháo thuyền quân Pháp. Hoàng thành, Đại nội, Tử Cấm thành một thời lối xưa xe ngựa. Văn miếu, Võ Miếu ngát lộng hương linh tiền nhân xây dựng xã tắc sơn hà. Chùa Thiên Mụ, Từ Đàm, những thôn, vườn nhà thanh thoát Huế

Rồi dòng Hương giang trầm lắng chất thơ, rồi những bài ca Huế mênh mang trên sóng nước bềnh bồng. Nhiều người ví Huế và sông Hương với Budapest và dòng Danube, hay Paris với dòng Seine. Cả ba dòng sông đều là những mơ ước viễn du của tôi. Trong trí tôi, Hương giang là một dòng sông vương giả, quanh co uốn khúc giữa núi rừng, đồi nương, quyện theo mùi thơm thanh khiết thạch xương bồ. Có khi, tôi thấy mình là một đấng quân vương, nhẹ bước xuống mạn thuyền rồng. Cả một không gian lung linh nhã nhạc. Tiếng hát buồn thương của những ca nhi hòa quyện cùng tiếng đàn tranh, đàn bầu, đàn nguyệt, giọng sáo, nhịp sên phách, sanh tiền gợi cho khách nhàn du những rung động thoát trần. Qua những bạn bè người Huế, tôi tưởng tượng ra một thứ Ca Huế lãng mạn, vừa đậm đà chất giọng bình dân vừa tàng ẩn những nhịp điệu thâm xa bác học của âm nhạc cung đình. Điệu Bắc vui tươi trữ tình, điệu Nam buồn thương ai oán. Không biết tự đời nào, trong tôi lãng đãng những điệu Lưu Thủy, Hồ Quảng ,Kim Tiền, Nam Bình, Nam Ai Tôi yêu Huế. Tôi thương sông Hương. Tôi mê tôn nữ. Nhưng cái cầu nối giữa tôi và Ca Huế không có gì hơn chiếc radio nhỏ xíu và chương trình Cổ Nhạc Trung phần.

Rồi những ngày đất khách quê người, những người xứ Huế lại đưa tôi trở về với cái không khí u buồn trầm mặc Huế. Những địa danh như Vĩ Dạ, Kim Long nghe bên trời lận đận đối với tôi thân thương như tên những vùng ven châu thổ Cửu Long. Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá, đò về Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sềnh...

Tôi, dạo mắt sáng tóc bồng ấy, cũng sính làm thơ nhưng, tiếc, chỉ được đọc thơ về Huế. Mối tình với Huế trong tôi là một mối tình vô phương bày tỏ: tôi chưa một lần đến Huế. Tôi không dám có một dòng thơ nào cho Huế.

Nhưng đó là chuyện ba mươi năm về trước

Hai

2004. Trời Huế những ngày cuối năm vẫn còn sùi sụt. Có lẽ như ngày công chúa Huyền Trân sang Chiêm hiến thân đổi hai châu Ô Lý. Đất Thuận Hóa- Phú Xuân- Huế ngàn năm nữa còn nguyên một chuyện tình buồn.

Đã rất chiều khi chúng tôi đến khách sạn. Người quản lý cho tôi biết những ngày trước mưa Huế dầm thối đất. “Chiều rồi, chắc đêm nay anh chị thế nào cũng đi nghe ca Huế? Để tôi dặn trước cho hai vé. Cứ ở phòng tới giờ sẽ có xe đến đón.” Tối, một đứa bé đến đập cửa phòng. “Mời anh chị đi nghe ca Huế”. “Xe đâu?” “ Không, gần thôi, đi bộ! Chỉ chừng 10 phút.” Cái mười phút của thằng bé được nhân đôi và chúng tôi biết mình vừa rơi vào vòng tay bọn trùm ca Huế. Ở bến Tòa Khâm đã sẵn hàng trăm du khách xí xô xí xào trong tiếng đùa giỡn của đám ca nhi và lời cãi cọ chửi rủa của lũ cò Ca Huế.

Nước ròng, vất vả lắm chúng tôi mới xuống được thuyền. Trong khoang đã sẵn một bàn rượu và 5 thanh niên, ý chừng người về từ nước ngoài. Họ chia nhau những lon bia. Chai Black and White Label đã cạn quá nửa. Mạn thuyền bên kia, một cặp vợ chồng già ngồi ngó mông . Dòng sông buổi tối đen ngòm. Không xa, chiếc cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp trang hoàng đèn ống, chốc chốc lại đổi màu lạnh quái.

Thuyền nổ máy vừa đủ để tách bến rồi tắt, thả trôi lờ lững mạn cầu. Ca kỹ và nhạc công trình diễn các bài Lưu Thủy, Xuân Phong, Kim Tiền, Long Hổ. Rồi thôi, đến chương trình bán CD Ca Huế. “Vì thời gian có hạn, nếu quý khách muốn biết thêm về ca Huế xin thưởng thức trong những CD chọn lọc này.” Một ca nhi chào hàng. CD này thì người ta có thể mua bất cứ đâu, không cứ gì ở Huế. Tôi phân vân không biết vậy thì mình cất công xuống thuyền để làm gì. “Bây giờ mời quý khách thả đèn hoa, với một lời ước nguyện nào đó gởi sông Hương” một ca sĩ khác tiếp lời. “Ước gì bây giờ? Mai em có rảnh đi ăn sáng với tụi anh.” Một thanh niên lên tiếng. “Thì ước gì mà không được.” “Thôi, vậy cứ ước chuyến về phi cơ đừng rớt.” Người thanh niên có vẻ mãn nguyện. Cả một đoạn sông Hương trước Phú Vân Lâu, từ cầu Bạch Hổ đến Trường Tiền lúc nhúc đèn hoa. Từng chiếc đèn trôi leo lét trên mặt nước buồn thiu.

Để kết thúc chương trình, chúng tôi được thưởng thức hai ca khúc tân nhạc Thương Về Miền Trung và Huế-Tình Yêu Của Tôi. Tôi bàng hoàng trong cảm giác một người bị phụ tình. Tôi, một người tình bị phụ! Ca nhi, nhạc công đã sang thuyền khác cho một sô diễn khác. Nhớ ơi, Tứ Đại Cảnh, Nam Ai, Nam Bình, Tương Tư Khúc, Lý Tình Tang, Lý Tử Vì.

Dòng Hương lờ lững trôi giữa những vùng dân ca nổi tiếng với các điệu hò mái đẩy, mái nhì, hò thai, hò giã gạo khoan nhặt, những điệu lý con sáo, lý hoài xuân, lý tình tang bay bổng mượt mà và những dòng nhạc cung đình trang trọng như giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, yến nhạc để sản sinh ra Ca Huế. Trời ơi, đó không phải là “Cái Âm Điệu Tủi Thân Bi Đát“như có người đã viết “Từ khi nhà Nguyễn thấm nhập cái âm nhạc mất nước của dân tộc Chàm bằng những lời ca Huế thì triều đại này này chỉ còn đi xuống dốc”! Đó cũng không phải là thứ Ca Huế bát nháo mà tôi vừa được giới thiệu trong buổi tối không may này, buổi tối đầu tiên ở Huế.

Tôi vừa được dọn cho một mâm cỗ Ca Huế dỏm, rẻ tiền, sai hình thức, sót trang phục, hỏng nội dung.

Ba

Tháng 11 sen đã tàn trong đại nội. Mặt hồ đen ngòm in bóng những tán mây qua. Bầy cá cảnh đớp mẫu thuốc lá tàn ai đó vừa ném xuống. Một du khách ngoại quốc đứng chỉ trỏ tấm biển Lối ra, thắc mắc. “Lối way, ra out”. Người hướng dẫn du lịch tận tình giải thích. Có lẽ người khách nước ngoài đã thỏa mãn với những chân đèn và con hạc giả trong điện Thái Hòa. Trước một bãi cỏ mênh mông không được cắt xén, tôi được giới thiệu đây là điện Cần Chánh xưa. Hàng cây đại quanh Tử Cấm thành trơ trụi, mốc meo. Một cặp vợ chồng (tôi đoán thế) đến trước mặt, chìa cho tôi chiếc máy ảnh. “Nháy giùm tớ một phát.” Ừ, thì nháy!

Có thế, đế đô 200 năm nhà Nguyễn! Còn có thế, mồ hôi ba vạn dân công, binh lính đổ suốt 27 năm trời! “Vạn niên là Vạn niên nào- Thành xây xương lính, hào đào máu dân.” Tiếc công Nguyễn Hoàng chọn núi dựng chùa, gom góp khí thiêng, giữ gìn long mạch. Rồng thiêng đã bay vút về trời, chùa Thiên Mụ hoang quạnh. Dưới chân, con sông Hương đục ngàu chảy qua Kim Long, Nguyệt Biểu, Vĩ Dạ, Đông Ba lượn quanh những quần thể lăng mộ hoang tàn , thế giới vĩnh hằng của những bậc đế vương, lừ đừ trôi ra biển.

Hầu hết những thú vui người Huế đều gắn liền với sông Hương. Đua thuyền. Ngủ đò. Thả thơ. Ca Huế. Và cả lịch sử một vùng Thuận Hóa, Phú Xuân đã gắn bó với dòng sông lịch sử này. Con sông Hương ngày nay kinh tế hơn, người ta khai thác cát sỏi bừa bãi. Trước chùa Thiên Mụ, trước lăng Minh Mạng, bờ sông sụt lở. Dọc bờ, đoạn cầu Bạch Hổ đến chợ Kim Long, hàng trăm ngôi nhà với những nhà vệ sinh trên sông mọc lên, phá vỡ cảnh quan sông nước. Đôi bờ sông Hương nhan nhản nhà hàng khách sạn. Lúc nước ròng, người ta hãy còn thấy những khối bê tông, cát sạn đổ trực tiếp xuống lòng sông. Ngay thôn Vĩ Dạ, các quán Dạ Lai, Quỳnh Hương, Vĩ Dạ Xưa, các khách sạn Sông Hương,Vĩ Dạ Riverside đã biến một đoạn bờ sông thành không gian của riêng mình. Nhiều nhà máy, xí nghiệp được dựng hai bờ. Người ta chỉ vừa mới bắt đầu nói đến vấn đề môi trường và hệ sinh thái sông Hương.

Ở Huế, không khó lắm để tìm được sự than phiền trước sự hấp hối của những dòng sông. Sông Hương một thời là thế, ngày nay càng gần bờ, càng có nhiều rác rưởi và bao nylon. Bờ sông gần chợ Đông Ba, nước đen ngòm và đầy chất thải. Nghe tôi phàn nàn về con sông, người lái xích lô cười ruồi.

“Xem vậy chứ còn khá hơn những con sông Bạch Đằng, Đông Ba, An Cựu... Nhà máy bia Huda sống nhờ vào con sông này đấy”, người xích lô chở tôi vui chuyện.
“Hả?”
“Người ta làm bia từ nước sông Hương!”

Nhìn dòng trôi lờ lững, lại nhớ đến mấy chai bia Huế uống hôm qua, tôi thấy nhột cổ. Chỉ mong anh xích lô nói đùa.

Bốn

“Cho tôi hai vé về Sài Gòn. Toa có giường ngủ.”Tôi đến quày bán vé.
“Nằm cứng hay nằm mềm?”Người thiếu nữ sau quày ngái ngủ.
“Hả? Ngồi cứng hay nằm cứng là cái quỉ gì vậy?”
“Đơn giản thôi, ngồi cứng là ngồi ghế không nệm, ngồi mềm có nệm, nằm cứng là giường không nệm, nằm mềm không có nệm. Có thế mà không biết!”
May cho chúng tôi, tàu còn nhiều vé nằm mềm.

Màn mưa loáng thoáng qua ô cửa tàu. Lạ kỳ, trước mắt tôi là một Huế thơ đẹp đến não lòng. Nhưng đó không phải là Huế này, Huế ốm đau đang nằm co ro hai bên đường sắt. Đó là Huế của hơn 30 năm về trước. Ảo ảnh? Đó là Huế thắm thiết mặn mà trong một lời ca Nam Ai: “Sang ngang một chuyến thu chiều mang nhiều kỷ niệm. Người đối diện là ai một đóa xinh tươi. Dòng Hương thủy nao nao. Bắn xa thuyền chốc đã kề nhau, chừ bốn mắt tương giao.” Đó cũng là Huế mây của Trần Huyền Ân “Tôi nghe xa lắm màu mây bạc- Rời bóng kinh thành lửng thửng đi.” Cũng là Huế trăng của Thúc Tề: “Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước- Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng.” Cũng là Huế nhà vườn của Hàn Mặc Tử: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ- Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên- Vườn ai mướt quá xanh như ngọc- Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Tôi mở chai rượu thuốc Minh Mạng, lật vội tờ báo Lao Động, nhằm ngay mục Sách-Văn hóa đọc. Nghĩ mãi mới nhớ xưa người ta gọi là mục điểm sách. Thời buổi có khác. Cẩn thận thế có lẽ bởi nhiều thứ sách không có văn hóa hoặc nhiều thứ được đọc nhưng không phải là sách. Xếp lại. Như vậy chắc cũng có mục Truyền thanh-Văn hóa nghe hoặc Truyền Hình- Văn hóa nghe, đọc và nhìn.

Tôi lại đốt thuốc, ra đứng ngoài lối đi, ngó mông. Mờ mờ, làng mạc và những con người theo trâu dầm mưa. Những bóng người lầm lũi sau những hàng mộ cổ trông dật dờ như những âm binh. Người phục vụ mang cơm trưa đến toa. Anh ta lom lom nhìn tôi từ đầu đến chân. Đi ngang qua. Lại quay lại nhìn. Tôi ngạc nhiên, nghĩ anh ta có điều chi muốn hỏi. Không, anh ta chỉ nhìn. Hoặc dò xét.

Tàu chui vào đường hầm, hàng chữ chạy trên bảng điện bật sáng: Tuyến đường Bắc Nam, công trình phát huy nội lực của ngành hỏa xa Việt Nam. Tàu chậm, được cái chỉ ngừng ở ga xép đôi phút, vừa đủ thời gian để vài phụ nữ dọc đường ray nhảy tàu, gom vỏ lon nước ngọt hay bao ny lông. Cho nồi gạo ngày mai!

Năm

So với cố đô, Sài gòn không kém về những hoạt động văn hóa. Nhan nhản những trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, tụ điểm văn hóa, khu phố văn hóa, phường văn hóa, khóm văn hóa. Nghe có buổi hội thảo Những khuynh hướng mới trong thi ca hiện đại của Hội Các Nhà Thơ Trẻ ở Nhà Văn Hóa Thành Phố, tò mò, chúng tôi đến xem. Dọc con đường Duy Tân một thuở cây dài bóng mát, những hàng biểu ngữ to tướng, chói lọi: “Toàn Đảng Toàn Dân Đoàn Kết Quyết Tâm Bảo Vệ Và Duy Trì Bản Sắc Văn Hóa Đậm Đà Của Dân Tộc”, “Cương Quyết Tiết Kiệm Để Góp Sức Xây Dựng Cho Thành Phố Một Nếp Sống Văn Minh Và Lành Mạnh”. Nhưng số 4 Duy Tân không phải là Nhà Văn Hóa như người Sài Gòn thường gọi. Nó được gắn biển đồng to tướng: Trung Tâm Đấu Tranh Công Khai Của Tuổi Trẻ Thành Phố Thời Đánh Mỹ. Buồn lòng vì hải ngoại ít chữ hơn trong nước.

Vào hội trường giữa buổi, chỉ kịp nghe loáng thoáng vài lời tranh biện và sau đó là kết luận gọn gàng của một nhà thơ trẻ điều phối buổi hội thảo. “Vì sự phức tạp và nhạy cảm của vấn đề, xin gác đề tài này sang một bên để các tác giả có thể lên diễn đàn trình bày thơ mình hoặc kể chuyện hay trình bày nhạc phẩm nào tùy ý”. Hội trường tuy không ồn ào lắm, như một đám cưới nhà hàng, tuy nhiên âm thanh dở hơn và nóng quá nên tôi không còn cách nào khác hơn là tin tưởng rằng những gì mà các tác giả trình bày đúng là thơ.

Lại nhớ những buổi hội thảo trong trại tù cải tạo, tù nhân được tự do phát biểu mọi vấn đề, miễn theo đúng yêu cầu của trên. Lại nhớ bây giờ là mùa họp của quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với những phát biểu của các đại biểu hoàn toàn nhất trí với báo cáo của Hội Đồng Bộ Trưởng và đề nghị, thỉnh nguyện rằng Buổi tối mưa dầm, nằm xem TV mòn mắt, thấy rõ công trình phát huy nội lực của ngành văn hóa. Lật trang Văn Hóa, tờ Thừa Thiên Huế sót lại trong va li, đúng ngay bài bình thơ Hồ Chủ Tịch về tuổi già. Hẳn nhiên bình rằng những bài thơ tuổi già này có văn hóa hơn những bài thơ thời trai trẻ.

Thành phố quê tôi cách Sài Gòn 70 cây số, cũng không kém phần văn hóa. Nhưng chỉ mới được xếp hạng là thành phố văn hóa cấp hai. À, như vậy còn phải phấn đấu nữa để đạt danh hiệu cấp một. Có thể cũng có danh hiệu văn hóa cấp kiện tướng. Về đến nhà đứa em, tôi biết thêm là cũng có danh vị gia đình văn hóa. Nhìn tấm bằng Gia Đình Văn Hóa được treo cẩn thận trên tường, sát bên kệ sách riêng của tôi mấy mươi năm về trước, tôi hỏi. Nó đáp: “Bởi gia đình em ba năm nay không có bày nhậu nhẹt, không cãi cọ đánh đập nhau.” Rồi nó cười, tiếp: “Hoặc có mà thiên hạ không hay biết hoặc có biết nhưng đã đến lượt nhà mình nhận bằng khen.”

Tôi chợt hiểu bây giờ trong nước tôi, có văn hóa không khó gì. Tội cho một số học giả bên ngoài, có lần tôi nghe tranh luận chí chát thế nào là văn hóa và thế nào là người có văn hóa.

Sáu

Văn hoá. Tôi cũng chợt hiểu vì sao sông Hương một thời xanh trong mà bây giờ ngàu đục. Tôi hiểu vì sao tôi hỏng một đêm Ca Huế. Tôi hiểu vì sao thành quách, đền đài, lăng tẩm, chùa chiền hoang phế. Tôi hiểu vì sao tôi dửng dưng rời Huế. Lúc thả đèn dưới dạ cầu Trường Tiền, tôi không gởi sông Hương lời ước nguyện sẽ trở về thăm lại Huế.

Nghĩ tức cười, tôi ví mình như đứa bé đi tìm lá diêu bông trong một bài thơ cũ. Khi tôi về được với Huế thì Huế đã thuộc về ai. Huế bây giờ lại già lão. Tóc bạc. Da mồi. Răng khuyết.

Nên, tha thứ cho tôi, mặc dù lỗi không ở tôi. Hẳn nhiên lỗi cũng không là ở Huế. Hãy tha thứ cho tôi nếu tôi không viết nổi cho Huế một dòng thơ.

Sen đã tàn trong đại nội.

Nguyên Nhi