(tự truyện)
Tết được nhắc tới từ lễ Giáng Sinh. Đêm Giáng Sinh chúng tôi khoảng
chục người tụ họp nhau bên gốc ổi ngoài sân ngay trước cửa phòng.
Mấy gốc ổi thấp lè tè được chúng tôi bứng về trồng theo đồ án thiết
kế của Kiến Trúc Sư Ngô Viết Thụ. Từ đồ án Dinh Độc Lập đến đồ án
sân trước của Nhà 2 trại Cải Tạo Làng Cô Nhi Long Thành, Kiến Trúc
Sư giải Khôi Nguyên La Mã đang trượt dốc. Chúng tôi cũng đang cùng
xuống dốc với ông. Suốt ngày lũ chúng tôi dang nắng kẻ khẩu hiệu
trên tường, trồng cây ngoài sân, rảy cỏ quanh hiên nhà, vẽ cờ trước
đầu nhà... Chúng tôi đây là Tổng Bộ Trưởng, công chức cao cấp, dân
biểu, nghị sĩ, thẩm phán, giám sát viên, đô trưởng... mới được gọi
chung dưới cái tên ngụy quyền. Sát cánh với chúng tôi là các tên
tuổi như Trần Trung Dung, La Thành Nghệ, Trần Văn Tuyên, Nguyễn
Xuân Phong, Nguyễn Bá Lương, Trần Minh Tiết, Bùi Tường Huân, Văn
Văn Của...Phía bên kia nhà chúng tôi là Khối Cảnh Sát gồm các sĩ
quan Cảnh Sát cấp Tá. Cạnh Khối Cảnh Sát là Khối Đảng Phái có mặt
từ Ông Vũ Hồng Khanh đến các đảng viên của các Đảng hoạt động dưới
thời Việt Nam Cộng Hòa. Và sau chót là Khối Tình Báo gồm tất cả
cấp chỉ huy và nhân viên tình báo chậm chân.
Chúng tôi từ các điểm trình diện học tập được di chuyển về đây
với đoàn bộ đội hộ tống trang bị tới răng, mũi súng lúc nào cũng
chăm chăm muốn nhả đạn. Trong đêm tối, ngồi trong xe bít bùng bốn
bề kín mít, chúng tôi thi nhau đoán mò địa điểm được chở tới dựa
theo những vòng quẹo của xe. Chẳng ai đoán đúng cả. Chỉ khi bước
chân xuống xe vào lúc hai giờ sáng, nhìn quanh quất, nhóm Bộ Xã
Hội mới nhận ra Làng Cô Nhi Long Thành, một địa điểm quen thuộc
của họ. Sáng hôm sau, mở mắt dậy, chung quanh toàn những tai to
mặt lớn quần xà lỏn áo may ô ngồi thừ người trên chiếu cá nhân,
tôi bỗng có cảm tưởng như mình đang ở hậu trường sân khấu. Mới Tổng
Bộ Trưởng, Dân Biểu, Nghị Sĩ, Tổng Giám Đốc, Giám Đốc... đó mà giờ
đây ngồi giơ xương ra với nhau chẳng rằng chẳng nói.
Hơn sáu tháng đã trôi qua kể từ ngày chúng tôi đi trình diện để
học tập cải tạo một tháng. Đúng thời gian một tháng quả là có những
dấu hiệu lạ. Nhà thầu dọn dẹp bếp núc, thu vén nồi niêu xoong chảo
trong nỗi mừng khấp khởi của chúng tôi. Ai cũng chong mắt nhìn ra
cửa trước cho xe đò tới rước về. Một đám bụi mù tung ngoài đường
đất cũng bóp nghẹt được cả ngàn con tim. Rồi xe cũng xuất hiện bon
bon chạy vào trong trại. Chỉ có hai xe. Làm sao đủ? Nhưng những
chiếc cổ mà bây giờ có cho cài khuy cổ thắt cà vạt chắc nút cà vạt
sẽ lỏng le, vẫn cứ nghểnh lên chăm chú quan sát. Xe dừng lại trước
vuông đất trống gần nhà bếp. Quản giáo te te tái tái tập trung một
đội tù dắt ra xe. Từng bao gạo được khiêng xuống. Gạo sao mà nặng
thế! Từ đó chúng tôi có thói quen nhìn gạo trong kho nhà bếp để
đoán ngày về giống như mấy ông thày bói nhìn chân gà khô để đoán
vận mạng con người. Lấy chân gà mà đoán số cho người cũng như lấy
gạo để đoán thời gian ở tù dĩ nhiên là sai bét. Nhưng chúng tôi
chẳng biết bấu víu vào đâu cứ nhè lấy mấy bao gạo làm phao hy vọng.
Chìm là cái chắc!
Chán gạo chúng tôi đi tìm ngày về ở thế giới siêu hình. Hai pho
tượng Đức Mẹ và Phật Bà Quan Âm lớn bằng người thật do Làng Cô Nhi
lập ở ngoài sân được chúng tôi thành tâm hỏi han nhiều nhất. Rồi
đoán mộng, cầu cơ, tử vi, bấm độn, coi chỉ tay, bói dịch, coi lá...
Chẳng thứ nào chúng tôi chê cả. Mọi khả năng để mở cửa trại ra về
được chúng tôi phát huy triệt để. Nói chuyện với quản giáo, chúng
tôi cố gài những câu hỏi xa gần để xem có khai thác được tí ánh
sáng nào không. Mỗi nhà có một quản giáo, tính tình và trình độ
học vấn khác nhau. Quản giáo nào cũng như thần thánh. Mỗi câu nói
được chúng tôi suy đoán, tán hươu tán vượn ra rồi đồn nhau. Từ nhà
này qua nhà kia lời đồn đãi mỗi lúc mỗi phồng lên. Mà chúng tôi
có tới 8 nhà tất cả. Đủ khả năng để từ một trái banh quần vợt phồng
lên thành trái bóng chuyền! Lời đồn nào cũng đầy hồ hởi được chúng
tôi ôm trong lòng làm thức ăn nuôi hy vọng. Không hy vọng làm sao
mà sống!
Lời đồn đắt giá nhất được mọi người vểnh tai nghe và căng người
ra cho đợi phát ra từ Khối Đảng Phái. Một ông bạn của Nguyễn Hữu
Thọ, đã từng nuôi con của Nguyễn Hữu Thọ khi ông này vào bưng làm
Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đang nằm trong khối này.
Một bữa có một phái đoàn báo chí Saigon gồm các ký giả đội nón cối
tới thăm trại. Con trai của Nguyễn Hữu Thọ có mặt trong phái đoàn
này tới gặp riêng người đã nuôi mình. Anh hỏi ông có cần gì để anh
mang vào. Tao chỉ cần thuốc suyễn thôi! Bác cần bao nhiêu viên?
Về hỏi bố mày xem muốn giam tao bao nhiêu ngày thì mang vào từng
đó viên.
Không biết anh ký giả này có mang thuốc vào không và mang bao nhiêu
viên nhưng ngày lễ Độc Lập 2 tháng 9 ông này được ra về cùng với
khoảng chục người đa số là các chị ở nhà nữ. Chúng tôi tái tê trước
một sự thực đơn giản mà chẳng ai nghĩ ra: vào cùng ngày nhưng không
phải về cùng ngày. Tái tê hơn nữa khi báo Nhân Dân đăng tin người
học viên cải tạo cuối cùng của Trung Quốc vừa được thả về sau hai
mươi lăm năm học tập. Chúng tôi xìu như bánh tráng gặp mưa. Nhưng
chỉ ít ngày sau lại đồn đãi, lại hy vọng. Chúng tôi ở cái thế không
hy vọng không được. Gặp nhau chào hỏi bằng câu: " Có tin gì
không?". Rồi thì thầm bơm hơi cho nhau sống.
Hy vọng của chúng tôi đặt vào lễ Giáng Sinh. Nhưng lễ Giáng Sinh
cứ lừng lững tiến tới mà chẳng có chuyển động gì. Chúng tôi lại
bé cái lầm lần nữa. Cộng Sản đâu có mừng lễ Giáng Sinh! Không những
không mừng mà còn cấm chúng tôi mừng lễ nữa. Chúng tôi có xin phép
cử hành thánh lễ. Câu trả lời dứt khoát là không được. Thêm một
lệnh cấm trước ngày lễ: không được hát thánh ca. Chúng tôi cảm thấy
hụt hẫng. Dù theo Thiên Chúa Giáo hay không, dân miền Nam vẫn coi
lễ Giáng Sinh như một ngày vui tỏ bày sự thân ái và an bình giữa
gia đình và bằng hữu. Chúng tôi tự động từng nhóm một quây quần
nhau trong đêm thánh này để sưởi ấm cho nhau. Nhóm chúng tôi khoảng
chục người tụ họp nhau bên cạnh gốc ổi. Vài anh có sáng kiến cắm
đèn cày vào hũ đựng chao treo toòng teng trên những cành ổi. Trên
tấm ván nhỏ dùng làm bàn chúng tôi gom góp lại được ít viên kẹo,
vài thanh đường tán, lon gô trà và chiếc điếu thuốc lào. Chúng tôi
kể cho nhau nghe những lễ Giáng Sinh trong đời mình. Dưới ánh đèn
cày lung linh và những vệt sáng đỏ bập bùng từ chiếc điếu thuốc
lào chuyền tay nhau, tôi nhìn quanh những khuôn mặt đồng cảnh chung
quanh. Nửa năm tù đã đẽo gọt mặt mũi bạn bè tôi thành những góc
cạnh cứng cỏi vêu vao. Chúng tôi có chung những đôi mắt buồn bã
vô hồn. Nỗi chán chường hằn rõ trên từng khuôn mặt. Vài anh bạn
trẻ, bất chấp lệnh cấm, hát nho nhỏ những bài thánh ca quen thuộc.
Chúng tôi ngồi chết lặng. Nước mắt chực hờ chỉ muốn chảy ra. Đại
Sứ Phạm Trọng Nhân tóc lơ thơ bạc trắng, hàm răng nhấp nhổm chỉ
muốn nhào ra khỏi miệng, rít một hơi thuốc ròn rã, thở ra một chùm
khói và một câu than:
- Buồn bỏ mẹ, các cậu nhỉ!
Một anh bạn trẻ đưa tay đỡ chiếc điếu cày, tay vê vê bi thuốc,
cười buồn:
- Sắp tết rồi còn buồn kỹ hơn nữa, bố ơi!
Chữ tết thốt ra như một mũi kim chích đau nhói. Tôi chưa có thể
tưởng tượng ra một cái tết trong tù, nhưng chắc phải lạnh tanh và
buồn tủi lắm. Tôi hoảng hốt ném ra một câu thăm dò:
- Chắc tết thế nào cũng có đợt về!
Hòn đá tôi ném ra khá nặng ký. Mọi người ào ào tranh cãi. Nói tới
về thì có là thánh cũng chẳng thờ ơ được. Tán đi tán lại một hồi
bao giờ mọi người cũng thú vị với những lời tán lạc quan nhất.
Tết như trái bóng sặc sỡ treo lơ lửng trong đầu chúng tôi. Các
hãng tin đồn hoạt động mạnh mẽ xoay quanh con số người sẽ được thả.
Nhà bếp đã bắt đầu mua heo về vỗ thịt. Bao nhiêu con heo? Bao nhiêu
người chia nhau một con heo? Lấy tổng số tù trừ đi số người sẽ ở
lại ăn thịt heo thì ra số người được thả về. Dĩ nhiên toàn là đoán
mò không. Anh nào cũng lắc đầu quầy quậy chẳng thèm ăn thịt heo
tuy cả mấy tháng nay có trông thấy miếng thịt heo nó ra làm sao
đâu.
Rồi tíu tít thông báo thi đua thể thao, lập ban văn nghệ, làm bích
báo, tranh giải cờ tướng nhân dịp tết. Nghe mà phát nản. Nhưng rồi
cũng phải tham gia. Sống với mấy anh quản giáo tích cực quá cũng
có ngày sanh chuyện mà lè phè quá thì bị điểm mặt thường xuyên.
Tôi nghĩ làm cho mình chìm đi trong đám đông là thượng sách. Phải
nín thở qua sông. Tôi tham gia vào ban hợp ca toàn trại vừa ra cái
điều không lè phè vừa được miễn lao động ở nhà tập dượt. Trưởng
ban văn nghệ là nhạc sĩ Vũ Thành An, rất tích cực được quản giáo
biết mặt, cán bộ biết tên. Từ ngày vào trại, chỉ với một đề tài
" học tập tốt, lao động tốt " mà anh đã sáng tác được
tới năm bảy bản nhạc được cán bộ phụ trách văn nghệ duyệt y để cho
cả trại gân cổ tập hát mờ người. Trong một buổi tập dượt của ban
văn nghệ, nhạc sĩ họ Vũ đã ôm đàn đứng hát cho anh em nghe chơi
một bài anh vừa sáng tác, bài Giao Thừa phổ thơ của Lưu Trương Khương
cũng là một cải tạo viên trong trại. Trước khi hát anh giáo đầu
là với bản nhạc này, anh đã trở lại dòng nhạc của anh. Thắp
nến hồng lên em. Giao thừa về rồi đó. Ánh sáng ngoi trong đêm. Như
bình minh đã lên. Ngoài kia xuân đang tới. Thơm ngát .............
Bao cành non lộc mới. Lòng thương em bấy nhiêu. Nôi con thơm giấc
ngủ. Giấc thiên thần..........Hãy ru con nho nhỏ......... Bản
nhạc nói đúng tâm trạng thương con nhớ vợ của chúng tôi trong những
ngày cận tết nên được chuyền tay nhau chép lại để ngâm nga cho vơi
niềm thương nhớ. Hai mươi mốt năm đã qua lời nhạc tôi chỉ nhớ lỗ
mỗ phần đầu. Phần kết còn có hẹn hò ngày về coi đó mới là xuân thật.
Xuân trong lòng xuân tươi.
Bích báo được diễn nôm là báo tường thì bắt buộc mỗi Nhà phải có
một tờ. Đại Sứ Phạm Trọng Nhân ở cùng tổ với tôi bò lăn bò càng
ra chiếu làm thơ. Dĩ nhiên là thơ xuân. Bài thơ khá dài tán nàng
xuân ráo riết rồi kết bằng hai câu:
Xuân nay đoàn kết xuân đoàn tụ
Sao mãi thằng Nhân chửa thấy về!
Sứ Thần Ngoại Giao Nguyễn Cao Quyền nằm sát tôi và cụ Nhân vội
can. Con xin cụ, cụ đưa bài thơ này ra thì tụi nó hành cụ nhỏ xác!
Cụ cười nhạt. Moa đếch sợ, tỏi là cùng chứ gì! Bài thơ được treo
trên tường. May phước chẳng sao cả. Anh em tủm tỉm thú vị. Cụ cười
khoái chí. Nhưng cứ mỗi lần cụ lên cơn buồn cụ lại phán. Các toa
ạ, chắc moa tỏi mất! Vật đổi sao dời, sau đó cụ cũng bảy tám năm
lê bước chân cải tạo khắp đất Bắc, rồi cụ về, cụ qua Pháp đoàn tụ
gia đình, cụ qua Montréal diễn thuyết về thơ Bàng Bá Lân. Tôi gặp
cụ tại thành phố tuyết này. Bá vai bá cổ nhau, vỗ lưng nhau bồm
bộp, cả hai cười toe toét. Này cụ! Khó tỏi gớm nhỉ? Mặt cụ căng
lên. Tỏi thế chó nào được!
Trông cụ cổ cồn cà vạt lại nhớ ngày cụ may ô xà lỏn. Bữa ăn thì
đâu có gì. Một tô cơm và một chén canh lõng bõng toàn nước. Vậy
mà bữa nào cụ cũng trải chiếc khăn trắng, xếp muỗng xếp đũa thẳng
thớm trước khi đi lãnh cơm. Rõ ra là một ông Đại Sứ. Nhiều lần nhìn
cụ bày biện tôi nghĩ tới khóa học ngắn hạn Nghi Lễ và Ngoại Giao
được tổ chức tại Bộ Ngoại Giao dành cho viên chức các Phủ Bộ lo
về nghi lễ hai năm trước. Trong khóa này cụ là giảng viên chính
và tôi là một học viên. Trong bài dậy về tổ chức tiệc ngoại giao
cụ đã chỉ cặn kẽ cách bày bàn tiệc, xếp chỗ ngồi, nghi thức dự tiệc,
nghi thức đón khách.... Từ bàn tiệc tráng lệ dọn làm mẫu tại Bộ
Ngoại Giao tới vuông vải trắng trên chiếc chiếu cá nhân và dáng
ngồi ăn lom khom của cụ, tôi thấy như mình vừa hụt chân hụt cẳng.
Giữa ba chúng tôi, cụ luôn luôn cười phô răng ra chống đỡ những
châm chọc của Quyền và tôi. Một hôm Quyền liếc mắt về phía cụ lớn
giọng nói với tôi cốt cho cụ nghe. Đáng lẽ cụ tếch được đấy chứ
nhưng vướng em út nên cụ kẹt, giờ cụ nằm đây kỹ quá chắc các em
cho cụ dze từ khuya rồi! Cụ cười hì hì. Tôi chẳng hiểu nụ cười của
cụ. Có thật hay không? Nhưng buổi tối họp sinh hoạt Nhà tập hát
bài Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây tôi bỗng nổi máu đùa dai ngồi
nghĩ đổi lời bài hát để chọc cụ. Qua một đêm tôi cải biên xong lời
ca. Ngày hôm sau tôi ghé tai hát nhỏ cho Quyền nghe. Anh phá ra
cười rồi tìm cụ mách. Thằng này nó chọc cụ, cụ ơi! Cụ đòi nghe.
Ra chỗ vắng vẻ tôi hát. Cùng đứng ngắm chung một vầng trăng, hai
đứa ở hai đầu xa thẳm. Đường ra về mùa này đẹp lắm. Người bên đông
nhớ người bên tây. Ở bên đông anh ăn, anh ăn khoai sắn hơi nhiều,
con đường cải tạo khó khăn gập ghềnh cho đời anh nát. Hết rắn rồi
anh bắt cóc anh ăn. Còn bên tây em sống vẫn phây phây, hết ăn rồi
lấy xe đi tìm kép, biết rằng em bắt được kép lạ, chắc em quên đời
có anh rồi... Nghe xong cụ lại cười hì hì.
Quyền dặn tôi đừng hát cho ai nghe không lại khốn cái thân. Dĩ
nhiên tôi ngu gì mà trình diễn ca nhạc miễn phí. Ăng ten loe ngoe
trong nhà, biết ai thật biết ai không. Cán bộ quản giáo bao giờ
cũng ca cái điệp khúc cũ rích. Ở hay về là tùy ở các anh, cứ học
tập tốt lao động tốt là ra về thôi. Trong mục học tập tốt dĩ nhiên
có khoản báo cáo với cán bộ những hành vi của anh em. Một số người
cam tâm làm ăng ten để mong sớm được về. Cỏ đuôi chó chỗ nào mà
chẳng mọc được. Một ông làm tới Tổng Giám Đốc đã làm một bài thơ
ca tụng họ Hồ nhân ngày lễ Độc Lập. Trong một buổi họp Nhà nhân
ngày lễ lớn, viên quản giáo vắt vẻo ngồi trên ghế, ông khúm núm
đứng đọc bài thơ, đọc xong lại khúm núm dâng bài thơ cho cán bộ
bằng cả hai tay. Mắt ông chẳng quên nhỏ chút nước mắt cho thêm phần
đậm đà. Chúng tôi chỉ cười thầm với nhau và tránh xa những tên khả
nghi.
Chiều chiều cơm nước xong ( cơm nước có gì đâu mà không xong! ),
chúng tôi thường kéo nhau đi bách bộ trên con lộ chính trong trại,
hành động được gọi là bát phố Catinat! Người đi lên đi xuống kìn
kịt. Rặt một thứ may ô quần đùi. Tất cả các Nhà đều túa ra ngoài.
Gặp bạn quen là hỏi nhau có tin gì mới không. Chỉ có một thứ tin
được chú ý. Về! Ngày nào cũng hàng đống tin. Toàn những diễn giải
lạc quan tếu. Nghe cho vui rồi cứ ôm ảo ảnh mà hy vọng.
Quyền là một người lúc nào cũng lạc quan yêu đời. Ít khi vắng nụ
cười trên chiếc miệng rộng nằm trên bộ mặt dài. Anh có nhiều tài.
Hát. Vẽ. Chẳng gì cũng là anh của họa sĩ Nguyễn Cao Uyên. Anh vẽ
chân dung khá đạt. Tôi nằm bên cạnh được anh lôi ra vẽ chân dung
đến mòn da mặt. Nói chuyện tếu cũng là cái tài của anh. Dép nhựa
được chúng tôi mang theo chỉ vài tháng là đứt quai lung tung. Chúng
tôi khắc phục bằng cách dùi lỗ lấy dây ni lông cột lại. Dây thì
vớ được mẩu dây là quí sá chi cái chuyện màu sắc lặt vặt.
Lệnh của cán bộ là cấm đi dép vào trong nhà lát gạch bông nên dép
xếp đầy ngoài cửa. Quyền nhìn đống dép cột dây mầu loạn xạ, phán.
Cứ y như đồng bóng, điệu này thì vợ nó bỏ hết cả lũ!
Khi cán bộ loan báo cho phép gửi thư về nhà báo tin nhân dịp tết
nhà nước khoan hồng cho mỗi người nhận 5 kí đồ gửi qua bưu điện,
người nào người nay buồn muốn khóc. Hy vọng gì vào đợt về tết nữa!
Quyền cười toe. Moa sẽ viết một đơn đặt hàng thật khẳm, ít ra cũng
phải một kí giò lụa cắn cho ngập răng.
Bác sĩ Thăng, một cây chịu chơi, đồng ý ngay. Thăng có bộ mặt rất
ngổ ngáo được Quyền đặt cho hỗn danh là Đốc Tơ Django. Một bữa buồn
tình tôi lê tới chiếu của Thăng đấu:
- Này cậu, ở trong này đi khám bác sĩ tiện thật. Cứ xà lỏn thoải
mái lại chẳng phải chi xu nào cả.
Thăng trợn mắt nạt:
- Ăn nói hay nhỉ! Có bệnh gì thì khai đại ra đi.
- Bệnh đau bụng.
- Có mỗi một cái bụng mà cũng bày đặt đau. Mà cơm canh có mẹ gì
đâu mà đau bụng!
- Bị hôm qua có thằng bạn không biết xoay đâu ra mà cho một miếng
cháy có phết chút mỡ. Vừa đút vào miệng là nó trôi tuột xuống bụng
cấp kỳ.
- Đúng rồi! Lâu ngày không ăn thịt ăn mỡ, ăn vào đau là phải. Lần
sau bạn có cho thì đưa tớ ăn cho!
Chúng tôi cứ chia nhau những niềm vui nho nhỏ như vậy cho qua ngày
tháng. Ngày tháng cứ tấp tểnh nhảy bước một tới cái tết. Mỗi ngày
trôi đi là niềm hy vọng ngày về của chúng tôi hụt mất một mảnh.
Mãi tới khi ông Táo về trời xong xuôi rồi tin đồn mới nở rộ lên.
Mấy ông thày địa lý, thày bói dịch, thày xem lá... cũng xác định
là sẽ có chuyển động. Mặt tên nào tên nay nở thêm ra một chút. Đêm
nằm ngủ tôi cứ vơ vẩn với ý nghĩ được ra về. Thư của vợ gửi vào
cho biết là bây giờ dạy học chẳng có giờ giấc gì. Dạy một, họp hành
và học chính trị tới mười. Nhiều đêm phải ở lại trường khuya lắc
khuya lơ. Hai đứa con một phải gửi bà nội, một gửi bà ngoại. Gia
đình có bốn người chia làm bốn mảnh. Càng nghĩ càng thấy nẫu lòng.
Sáng dậy tỉ tê với Quyền:
- Mùa này ra về chắc đẹp lắm toa nhỉ?
Quyền toác miệng ra gọi cụ Nhân:
- Này cụ, thằng này nó đòi về đấy cụ ạ.
Cụ Nhân buồn ra mặt, chậm rãi:
- Thì ai về được mừng cho người đó. Chắc tớ còn lâu lắm.
Tối 25 tết có hiện tượng lạ. Quản giáo kêu ba người lên làm việc.
Gặp quản giáo về, ba anh mặt hớt hơ hớt hải im thin thít không nói
tiếng nào. Anh em rề rề theo hỏi các đương sự cứ lơ đi. Nhiều anh
nổi cáu chửi thề um sùm cũng chẳng có kết quả gì. Miệng nào miệng
nấy như được đóng khằng năm lần bảy lượt. Rất khuya, đợi cho anh
em chui vào mùng ngủ hết, các đương sự mới lò mò thắp đèn cầy trong
mùng ngồi viết. Quyền vạch mùng nói nhỏ với tôi:
- Tụi nó viết cảm tưởng. Chắc chắn mai sẽ có đợt về.
Mặt tôi giật giật tê điếng. Lạy trời cho có tên tôi. Người tôi
như có nguyên một ngọn núi lửa đang phun xối xả. Lật qua lật lại
chán mà chẳng ngủ được, tôi mò dậy đi tiểu. Vừa quơ được đôi dép
bước ra cửa tôi giật mình nhìn ra bụi cây trước nhà. Một bóng trắng
đầu phủ khăn cũng trắng toát ngồi bất động giữa lùm cây. Tôi tính
quay vào kêu Quyền thì bóng trắng nghe thay tiếng động quay người
lại. Tôi lên tiếng:
- Ai đó?
- Hướng đây.
- Cậu ngồi làm gì đó?
Tôi tiến sát tới bên Hướng. Giọng anh nặng nề:
- Hồi hộp quá ngủ không được ra ngồi cầu nguyện.
Tôi ngồi chồm hổm bên cạnh Hướng. Mặt anh đẫm nước mắt. Tay anh
nắm chặt chuỗi tràng hạt. Anh thều thào:
- Mai mà không được về chắc tôi chết mất cậu ạ!
Tôi định an ủi anh nhưng miệng nói không nên lời. Lòng tôi cũng
đang tơi bời còn an ủi được ai. Tôi không muốn dối mình dối người.
Tôi lẳng lặng bỏ đi. Mai mà không được về tôi sẽ ra sao? Tôi rùng
mình. Trời đêm cuối năm thật lạnh.
Sáng hôm sau, 26 tết, cán bộ tất tưởi tay cầm cuộn giấy lên kêu
họp nhà. Mọi người vội vàng vào hàng ngũ. Chưa bao gio anh em lại
tập họp nhanh nhẹn đến như vậy. Tôi nhìn quanh. Mọi khuôn mặt đều
căng lên hồi hộp. Bụng tôi đánh lô tô. Đang ngồi tôi đứng lên nói
với đám bạn quen ngồi cạnh:
- Đứng lên một cái lấy hên!
Chẳng ai cười. Người nào cũng còn đang bận đội một thúng chì trên
đầu. Mọi cặp mắt đều dồn vào tờ giấy trên tay cán bộ. Tôi thấy trang
giấy đen kịt chữ. Chắc cũng phải vài chục tên. Có tên tôi trong
đó không? Tôi nhấp nhổm như muốn xoi thủng những con chữ trên tờ
giấy.
Cán bộ lên tiếng yêu cầu im lặng. Căn phòng lặng ngắt tức thì.
Cán bộ giáo đầu cà kê về chính sách khoan hồng của nhà nước. Tim
tôi nhảy loạn xạ. Được về hay ở lại? Hai tình huống xa nhau như
Thiên Đàng Địa Ngục. Tai tôi hững hờ với những sáo ngữ rỗng tuếch
đang phát ra từ cái miệng bôi mỡ. Rồi giây phút định mệnh cũng đến.
Tên người đầu tiên được xướng lên. Kẻ diễm phúc đứng phắt dậy mặt
mũi ngơ ngác tái mét. Tôi bấm đốt ngón tay đếm từng tên. Ngón tay
cái chạy gần hết bốn ngón tay kia thì tên tôi được đọc lên. Tôi
đứng phắt dậy. Có phải chân tôi đang chạm đất đây không? Đầu tôi
lỏng le như chẳng có gì ở trong. Mặt mũi tôi tê rần. Tai tôi lùng
bùng nghe tiếng quản giáo hỏi:
- Anh ở nhà này à? Sao tôi ít thấy mặt anh?
Lạy trời đừng có gì trục trặc. Môi tôi như gắn hàm thiếc không
nói năng được gì. Tai tôi lại lùng bùng nghe:
- Anh ngồi xuống.
Tôi ngồi phịch xuống. Chiều nay mình sẽ ở nhà mình. Tôi cố làm
quen với ý nghĩ mới mẻ này. Những khuôn mặt quanh tôi nhũn ra khi
cán bộ gấp tờ giấy lại. Tôi nhìn thấy nét bàng hoàng hoảng hốt,
tôi nhìn thấy những giọt nước mắt vội vã, tôi nhìn thấy những khuôn
mặt nặng nề cố nuốt nỗi thất vọng. Và tôi cũng nhìn thấy nỗi mừng
vui cố giấu kín của những người có tên. Hướng nhìn tôi cười. Anh
cũng được về. Một anh mới bị cảnh cáo vì tội trộm rau ngoài vườn
cũng có tên trong số những người...học tập tốt! Chúng tôi về chỗ
thu xếp đồ đạc để lên hội trường. Một vài người bám lấy quản giáo
hỏi han. Bỗng quản giáo lớn tiếng kêu:
- Anh nào là Đào Văn Hướng?
Hướng vội chạy lại đáp:
- Thưa cán bộ, tôi.
- Anh sinh năm nào?
- Thưa cán bộ, năm 1937.
- Lộn rồi. Anh không có tên. Tên trong danh sách là Đào Văn Hưởng,
sanh năm 1927, là anh này đây.
Người Hướng đổ nhào xuống. Nỗi tuyệt vọng đã đánh gục anh. Mắt
anh như đôi mắt giả vô hồn ngơ ngáo nhìn quản giáo. Mọi người xúm
lại quanh anh.
Tôi ngồi thừ trên chiếu. Bạn bè tôi túa đến. Người dặn dò tôi ghé
qua nhà, người xin các vật dụng cá nhân, người dúi vội mẩu giấy
nhắn tin về nhà... Tôi bỏ lại hết đồ đạc lèo tèo của mình cho anh
em, nhẹ tênh ra sắp hàng lên hội trường. Quyền chạy theo tôi. Nhớ
ghé nhà moa nghe! Tôi đảo mắt tìm cụ Nhân. Bóng cụ ủ rũ ngồi dựa
tường. Tôi nhìn hàng người lố nhố đứng nhìn những con người may
mắn bước ra khỏi cổng trại. Bên kia hàng rào có chòi gác là hội
trường. Tiếng máy phóng thanh thúc giục ra lệnh làm thủ tục ra về.
Mỗi người được phát một ổ bánh mì thịt. Tôi đứng gặm bánh mì nhìn
vào trại. Trời giữa ngọ nắng gắt chói chang. Những bóng người lụm
cụm lui tới. Phải mất bao nhiêu thời gian để các bạn tôi tiêu hóa
được nỗi bất hạnh ngày hôm nay. Thăng đứng cạnh tôi đã lủm gần hết
ổ bánh mì. Tôi nhìn bụng anh, anh nhìn bụng tôi. Hai đứa toét miệng
cười. Cái bụng có đau thì kệ thây nó!
Đoàn xe bộ đội đưa chúng tôi về bò ra khỏi con đường đất bụi mịt
mù gặp Quốc lộ 15 quẹo mặt. Đường về Saigon. Nỗi bàng hoàng chưa
rời khỏi chúng tôi. Ôm nỗi vui mừng quá lớn lao mà chúng tôi ngồi
im thin thít không dám nói năng gì. Gió lồng lộng tung hồn tôi lên
cao. Tôi nhắm mắt tận hưởng nỗi sung sướng tưởng chừng như nổ tung
người ra. Cầu Xa Lộ. Ngã tư Hàng Xanh. Saigon đây rồi. Đoàn xe chạy
vào vườn Tao Đàn. Dân chúng đổ xô chạy theo. Khi xe ngừng cho chúng
tôi xuống thì con đường nhựa giữa vườn nối liền hai cổng đường Nguyễn
Du và đường Hồng Thập Tự đã đầy nhóc người. Những câu hỏi tíu tít
trả lời không kịp. Mọi người, nhất là các bà có chồng đi học tập,
muốn níu chúng tôi lại hỏi chuyện. Chúng tôi thì muốn bay về nhà
ngay. Tôi vất vả luồn lách ra được tới đường Hồng Thập Tự. Một anh
xe ôm trờ tới:
- Thày lên xe em chở về.
Tôi leo lên xe. Anh xe ôm vui tính bắt chuyện suốt đoạn đường về
tới Thị Nghè. Tới nhà tôi bước xuống bảo chờ tôi vào lấy tiền ra
trả. Anh khoát tay:
- Tiền nong gì thày! Em là lính cũ. Các thày về là mừng rồi. Thôi,
chào thày em đi.
Tôi ngẩn ngơ đứng nhìn chiếc xe rú ga lao đi.Cạnh tôi, một nhóm
người tụ tập quanh chiếc xe ba bánh trên có một thùng phuy và chiếc
bơm. Một hàng can nhựa cáu bẩn xếp hàng ngoằn ngoèo trên vỉa hè.
Mặt mũi người nào cũng thấy căng thẳng nhìn vào mực dầu hôi trong
chiếc bơm. Chắc là dầu tiêu chuẩn ngày tết. Tôi quay bước vào đường
hẻm. Đứng trước cửa nhà tim tôi đập loạn xạ. Tôi đã về tới nhà.
Chúa ơi, sao lại có lúc sung sướng đến như thế này! Bên trong cửa
sắt tiếng cười nói ồn ào. Tôi thò tay vào mở cửa. Con chó vàng sủa
inh ỏi. Mày không nhận ra tao sao kiki? Bố mẹ tôi, anh chị tôi,
vợ tôi, các em tôi há hốc miệng ra nhìn. Mấy can dầu, dăm ba gói
nhu yếu phẩm trong những bao nhựa đen đúa nằm ngổn ngang dưới đất,
những thứ vừa mang lại tiếng cười nói vui vẻ ồn ào của gia đình
tôi, bỗng bị bỏ quên. Mọi người tái mặt chạy ra ôm lấy tôi nắn nắn
xem có thực là tôi không. Chắc chẳng ai ngờ tôi lại hiện ra vào
những ngày giáp tết như thế này.
Tôi cúi xuống ôm đứa con gái đầu lòng. Nó te tái chạy vào phòng,
núp sau cánh cửa ló đôi mắt đen nhánh ra nhìn. Nó chẳng nhớ tôi
là ai. Phải vài ngày sau con tôi mới ôm tôi thỏ thẻ với giọng ân
hận: Con lạ ba! Tôi ôm chặt lấy con. Làm sao có thể nói cho đứa
con ba tuổi hiểu được rằng chính tôi cũng chẳng còn là tôi. Mất
đi gần chục kí thịt có nhằm nhò gì so với khoảng mù mịt trước mặt,
khoảng mù mờ sau lưng. Tôi trắng tay quá khứ và què quặt tương lai.
Tôi cố xua đi mọi phiền muộn. Dù sao tôi cũng lê được cái thân
xác xơ về với gia đình vào một ngày cận tết. Chẳng phải cận tết.
Năm đó tôi chỉ có một cái tết. Vào ngày 26 tháng chạp!
Song Thao
|