Nửa đêm trời trở gió. Cơn gió đầu đông thổi ù ù, đập
phần phật vào mái nhà phía sau sundeck. Thỉnh thoảng vài ngọn gió
mồ côi lạc đường len vào khe hở của khung kính cửa sổ tạo thành
tiếng rên dài nho nhỏ làm bà Tư giựt mình tỉnh giấc. Ngọn đèn ngũ
có cái chụp giấy xanh nhạt đặt trên chiếc tủ cạnh đầu giường vẫn
êm đềm tỏa ánh sáng lặng lẽ, mờ mờ. Bà Tư nằm trằn trọc cố dỗ lại
giấc ngủ, tiếng gió xạc xào ngoài hiên dường như theo nhau ùa vào
phòng mang theo hơi lạnh khiến bà co mình dưới tấm chăn và nhắm
nghiền đôi mắt, thế nhưng cánh cửa trong trí tưởng của bà lại bật
mở vẫy gọi những hình ảnh xa xưa, tất cả lũ lượt kéo về chầm chậm
lướt qua trong hồn.
oOo
Hồi tưởng mang bà Tư trở lại thời còn con gái mười
sáu, mười bảy tuổi, thuở vô tư sống trong một xóm nhỏ quanh trường
tiểu học nằm ven thị trấn. Ở đó có những ngôi nhà chạy dọc con đường,
cái thì lợp mái tôn, vách gỗ, cái thì mái ngói phủ rêu phong. Cũng
có những căn nhà nhỏ khác nằm sâu trong mảnh vườn phía sau con lộ
đầy nắng và bụi, vì không phải là con đường huyết mạch nên ít xe
cộ qua lại khu này, nhờ vậy sinh hoạt chung quanh có dáng vẻ êm
đềm hơn các nơi khác trong Quận lỵ. Một hôm, vừa tan buổi chợ về
bà Tư thấy nhà trên có khách và cũng vào tối hôm đó bà được cha
mẹ gọi đến báo cho biết có người dạm hỏi xin cưới bà. Người đời
thường hay nói nhà có con gái lớn giống như có hũ mắm treo đầu giường,
ác miệng hơn lại ví rằng có trái bom nguyên tử không biết sẽ nổ
lúc nào, vì vậy khi có người thuộc gia đình khá giả, tử tế nhờ mai
mối đưa tiếng thì coi như là một may mắn, nhất là trong thời buổi
chiến tranh trai thiếu gái thừa như hiện tại.
Chú rể không phải người xa lạ, đó là thằng Tiền con trai thứ tư
của bà Sáu Mẹo bán quán ở đầu xóm trên. Tuy ở cùng một xóm từ nhỏ
nhưng cả đôi trai gái chẳng có chút nào thân thiết với nhau. Trong
ký ức của bà Tư chỉ nhớ thằng Tiền dạo còn nhỏ lớn hơn bà vài tuổi
và là con út nên được nuông chiều quá thể, suốt ngày tụ họp mấy
thằng nhóc cùng trang lứa, nếu không đi thả diều, bắt dế thì xúm
nhau tạt lon, giành đá trái banh làm bằng vỏ bưởi độn giẻ rách hoặc
dàn trận đánh nhau như đám giặc chòm. Bọn này còn chuyên môn đi
phá phách đám con gái trong xóm, gặp lúc mấy đứa đang xúm lại nhảy
cò cò chúng kéo đến vạch quần ra xỉa vòng vèo những tia nước tiểu
của mình lên các ô vuông của bầy con gái vẽ trên nền đất, có khi
cả đám đang xúm nhau che nhà chòi bằng manh chiếu rách chơi trò
bán hàng thì chúng đến trước mặt lôi từ trong túi quần những con
thằn lằn, trút từng lon trùn đất ra để giả vờ mua bán thay cho số
tiền vẫn thường làm bằng lá cây, rồi nhe răng cười khoái trá khi
thấy đám con gái rú lên hoảng hốt và chỉ biết mếu máo chạy đi kêu
người lớn để mét lại.
Ngày tháng nối tiếp cho đám trẻ lớn lên. Con gái lúc nào cũng
trưởng thành trước tiên, bắt đầu biết e thẹn và làm dáng, tụm năm
tụm bảy giấu đôi mắt lúng liến sau chiếc nón lá hay quanh quẩn sau
bếp nói cười khúc khích vào dịp giỗ chạp, cưới hỏi của láng giềng.
Khi ấy bọn con trai như những chú ngựa non khoe mẽ đang xông xáo
tập chạy, mặt đầy mụn, giọng khào khào như giọng mấy con gà tre
mới tập gáy. Sau khi học hết lớp của trường bán công đệ nhất cấp,
những đứa con nhà khá giả được cha mẹ cho về thành phố tiếp tục
đi học, nhiều đứa con trai lớn hơn nữa thì đến tuổi đăng lính. Là
đứa con trai độc nhất còn lại trong gia đình có hai anh đang tại
ngũ nên năm mười tám tuổi thằng Tiền được hoãn dịch vì lý do gia
cảnh. Trước đó hai năm Ông bà Sáu đã gởi Tiền xuống Saigon học nghề
thợ máy ở nhà người cậu ruột. Giờ Ông bà cảm thấy con mình đến lúc
phải lập gia đình. Điểm qua những đứa con gái trong xóm thì bà Tư
được ba má Tiền vừa mắt nhất. Bà Tư khi ấy không còn là con bé Kim
Luông thích nhảy dây hoặc ngắt lá dâm bụt chơi trò bán hàng nữa,
trước mắt mọi người là một cô gái lớn phổng phao có gương mặt tròn
trĩnh, hai gò má đỏ hồng giỏi việc chợ búa, bán buôn nhất xóm. Đám
cưới được tiến hành theo lễ nghi dự định giữa cha mẹ đôi bên và
từ đó hai người con lặng lẽ trở thành chồng vợ.
Chưa hề nếm qua một chút lãng mạn, hẹn hò của đôi lứa. Chẳng hiểu
tình yêu thế nào và người yêu ra sao! Là con nhà gia giáo, phận
gái cha mẹ đặt đâu phải ngồi đó, bà Tư vâng lời đi lấy chồng không
dám có chút ý kiến về chuyện tình duyên của mình, cũng như không
được tự quyết định riêng cho mình điều gì theo sở thích. Tuy rằng
xã hội mà bà đang sống không đến nỗi khe khắt như thời xưa, nhưng
với truyền thống “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu “được nghe
cha mẹ nhắc đi nhắc lại hàng ngày đã biến con người bà trở thành
thụ động, từ lúc nhỏ cho đến khi lấy chồng cuộc đời bà là một chuỗi
dài sống trong khuôn khổ hoàn toàn do sắp đặt của người khác. Tất
cả đã thành thói quen, nếp nghĩ trong đầu.
Suốt mấy chục năm dài chung sống bà đã làm đủ bổn phận của một
người vợ được cưới xin đúng theo nghi thức. Bao năm tháng bên nhau,
những lúc chung đụng vợ chồng, chăm sóc con cái bồng ẵm chúng, cùng
kề vai tựa má nhau có phải đã tạo thành tình cảm? Tình yêu đến sau
hôn nhân này đã thực sự phát xuất từ sâu thẳm cõi lòng của bà tự
bao giờ bà chẳng hay biết, có lẽ từ cái nghĩa dẫn đến yêu chỉ là
một khoảng cách rất gần ; mặc dù Bà chưa để lộ cho bên ngoài trông
thấy một ánh mắt đắm say hay cử chỉ vuốt ve âu yếm. Thế nên khi
bất thình lình Ông Tư Tiền đề nghị ly dị, bà thảng thốt choáng váng
bởi bị hụt hẫng, bà băn khoăn suy nghĩ không biết trải qua bao năm
mình còn thiếu sót hoặc chưa làm tròn điều gì đó đã khiến Ông Tư
không muốn bà tiếp tục làm vợ của Ông?? Bà cố nghĩ mãi nhưng vẫn
không ra!.
Những đứa con khi nghe chuyện Ba chúng đòi ly dị với Má thì ồn
ào hơn, mỗi đứa một câu bàn tán xác quyết ngay :
"Rồi rồi!! Má là một nạn nhân của phong trào chiêu dụ đàn ông
hải ngoại về Việt Nam cưới vợ đây."
Kim Sa là đứa con gái út giận dỗi cự nự :
"Con thấy Ba dạo sau này thân thiết với Ông Tám Banh là con
nghi rồi. Ai đời già hơn năm chục tuổi đầu còn về Việt Nam làm đám
cưới với đứa con gái mười chín tuổi đáng con của mình. Mấy ông già
tới tuổi hồi xuân sinh tật kỳ quá."
Đứa con dâu lớn phụ họa thêm :
"Trời ơi! Con nghe nói bà má vợ còn nhỏ hơn ổng hai tuổi nửa
kìa. Coi cuốn phim video đám cưới quay cảnh nhà gái lên chùa làm
lễ cưới bên đó, nghe bà sư cô khen cô dâu chú rể xứng đôi quá làm
con muốn ói. Bả phải nói là xứng đôi với bà má vợ thì đúng hơn."
Quay sang chồng, cô con dâu bà Tư chì chiết :
“Nè, từ rày về sau dứt khoát là em không cho Anh về Việt Nam nữa
đâu “.
Thằng con thứ hai của bà Tư vừa cười vừa nói :
“Đàn Ông ở hải ngoại bây giờ có giá rồi, không còn xếp hạng bét
sau con ki ki nữa đâu nghe. Đâu phải lỗi tại đàn ông. Nếu các cô
không bằng lòng thì ai bắt buộc được. Bộ không thấy mấy cô gái trẻ
măng xếp hàng chờ lấy chồng Đài Loan điên khùng và già khú đế sao?
Dĩ nhiên đàn ông Việt Nam là đồ tốt hơn họ rồi, có già đến đâu cũng
mặc kệ "
Kim Sa nói mát :
"Anh binh vực cho đàn ông là phải rồi. Hỏi lại Anh, vậy chứ
chuyện ba đòi ly dị với má bộ Anh đồng ý hả. "
"Đừng có gieo tiếng ác cho Anh mày chứ!! Chuyện đó thì ai bằng
lòng hồi nào. "
Long là đứa con lớn cũng là đứa trầm tĩnh nhất bây giờ mới lên
tiếng :
"Dĩ nhiên là con cái không ai tán thành chuyện ba má mình
ly dị rồi. Nhưng cũng có một số cặp vợ chồng già đưa nhau ra tòa
chia tay vì cả hai đều trở thành khó tính không thể chịu đựng lẫn
nhau. Má của mình hiền khô chẳng thấy cãi cọ với ba lâu được một
ngày. Vậy tại sao ba lại đòi ly dị? "
“Nghe nói là cô vợ trẻ mới cưới của Ông Tám Banh còn một người em
gái mười tám tuổi chưa chồng. Hay là ba của mình muốn làm anh em
cột chèo với ổng? "
Ba Lân, con thứ hai của bà Tư vừa nói vừa cười hí hí.
Bằng một giọng giận hờn cô con gái Út cự nự người anh :
"Bộ Anh vui lắm hả "Cô nói tiếp :
"Chắc tại má hiền quá, ba làm gì má cũng chiều theo nên sinh
tật nọ kia chứ gì." Kim Sa nhận xét như vậy.
Báo chí dạo này đăng tải nhiều chuyện của xã hội và con người
thật quái đản. Bắt đầu cái ngày cả miền Nam đổi đời từ ông xuống
thằng, từ thằng lên ông, trật tự trong đời sống trước đó đều lộn
ngược theo. Kẻ dốt chỉ huy người có học, chế độ mẫu hệ lên ngôi
trong đời sống gia đình. Chủ nhân phải sợ sệt người làm công, quốc
hội một nước có phu quét rác làm đại diện, mọi người cố thích nghi
và hóa thân làm kẻ nghèo khó, bần cùng để khẳng định tính giai cấp
ưu việt của mình trong xã hội. Ban đầu người ta bán dần đồ đạc trong
nhà, cuối cùng không còn gì để bán chỉ còn thân xác cũng đem ra
bán nốt. Đàn ông bán sức, đàn bà bán thân. Muốn trở thành nhà kinh
tế gia thành công, có tầm cỡ không thể bỏ lỡ cơ hội đi buôn. Người
ta lên án chuyện buôn bán nô lệ ở các nước Tây phương cách đây vài
thế kỷ là chuyện dã man, thế nhưng bây giờ qua mỹ từ đẹp đẽ xuất
khẩu lao động, con người là món hàng được trao tay qua những hợp
đồng mang lại lợi nhuận hết sức béo bở. Chuyện một cô gái đáng tuổi
cháu ngoại cặp kè một ông Già tỷ phú sắp xuống lỗ không còn chỉ
xảy ra ở bên trời Tây. Nó nhan nhản ở việt Nam từ thành phố đến
thôn quê, ai không đua đòi theo nếp sống văn minh thời thượng là
kẻ thiệt thòi, lạc hậu.
Mặc cho các con phản đối, cuối cùng bà Tư cũng phải đồng ý ký
vào đơn ly dị. Đám con giận cha vì còn vài năm là đến sáu mươi,
đã có sui gia, cháu nội ngoại đầy đủ lại không cố giữ cho nhau đến
cuối đời. Bà Tư cố tìm lý lẽ nói với các con để biện hộ cho ông
Tư, một khi đòi ly dị chắc ông có cái lý của mình.Cuộc hôn nhân
tan vỡ xảy ra nhẹ nhàng nhưng chứa đầy ngậm ngùi tủi thân. Lúc nào
phần thiệt thòi cũng là người phụ nữ. Bà Tư nghe nói đàn ông đàn
bà khi đến tuổi hồi xuân thường có những suy nghĩ cùng hành động
thất thường và không phải ai cũng giống nhau. Có người an nhàn chờ
đợi tuổi già, người khác muốn đi ngược vòng tuần hoàn của tạo hóa.
Bà Tư thì làm kẻ an phận nhìn những nếp nhăn xuất hiện theo tuổi
tác và đâm ra sợ chuyện gối chăn. Bà siêng năng đi chùa hướng lòng
về đời sống tâm linh làm nguồn vui, có lẽ vì vậy ông Tư cảm thấy
cô đơn, buồn tẻ. Chẳng lẽ bao nhiêu kỷ niệm thân thiết trong thời
gian chung sống, những khổ cực đã từng chia xẻ từ ngày đầu đặt bước
chân sang xứ lạ quê người với đôi bàn tay trắng, những săn sóc tận
tâm khi trái nắng trở trời đã không để lại trong lòng ông chút tình
gia đình ấm cúng. Có phải vì tuổi trẻ chưa được yêu, bây giờ chừng
tuổi này ông Tư mới khám phá và nuối tiếc thời son trẻ, nên gấp
gấp níu lại tuổi xuân? Có phải đến bây giờ ông mới nhận ra ông chỉ
sống bằng nghĩa vụ nên muốn tìm cảm giác khác lạ? Hay tình vợ chồng
đối với ông giống như một chiếc xe cũ kỹ đến thời kỳ phế thải? Tất
cả cũng chỉ là suy đoán! Sống chung với nhau lâu rồi Bà Tư đã quen
chịu đựng, thế nên khi đã nghỉ suốt Bà thấy cần phải dung thứ cho
Ông Tư, việc chấp nhận ly dị của Bà là hành động tự cứu mình và
cứu ông ra khỏi cảnh khổ lúc tuổi về già. Hình như thượng đế đã
mang đức tính hy sinh để đúc kết thành trái tim của người phụ nữ.
Gẫm lại, Bà thấy vẫn còn may mắn hơn một bà bạn đạo hữu mà bà gặp
khi đi chùa.
Bà bạn thì bi thảm hơn bà nhiều. Vì quá tin tưởng ông chồng đã
gần bảy mươi nên không ngờ được sự thể xảy ra. Lần đầu cả hai ông
bà cùng về thăm quê, mấy lần sau ông về một mình vì bà phải ở lại
trông coi tiệm tạp hóa của hai người. Mỗi lần về ông đều mang không
ít tiền để tiêu xài ; lấy cớ giúp đỡ họ hàng nghèo khổ ở quê nhà.
Ăn tiêu không đủ, ông mang visa ra xài, khi bà khám phá ra là ông
về vui thú trong quán bia với các cô gái trẻ đến nỗi rút hết sạch
tiền dành dụm trong trương mục ngân hàng dành để dưỡng già của cả
hai vợ chồng, cộng thêm tiền nợ visa của ngân hàng. Bà uất ức đến
nghẹt thở. Cả đời dành dụm bòn mót từng đồng bạc lẻ, thức khuya
dậy sớm, mong cho đến lúc về già có chút của để hưởng nhàn giờ đây
thành ra tay trắng. Nhưng thôi bà nghĩ lại, con người ai mà không
nhẹ dạ, ai cũng ưa lời nói ngon ngọt êm tai, ai lại không có đôi
lúc thiếu sáng suốt. Đã là vợ chồng thì có biết bao tình nghĩa,
bao nhiêu kỷ niệm thôi thì bà cũng nén giận bỏ qua tất cả để cố
gầy dựng lại sự nghiệp. Một hôm, đứa cháu nội nhận thư thấy có lá
thư viết bằng tiếng Việt, thằng bé không biết đọc nên mang trao
cho bà. Lá thư viết gởi cho ông báo tin đứa con trai lên một của
ông đang bị bệnh tại Việt Nam, thư thúc giục ông gởi tiền về gấp
đồng thời làm giấy bảo lãnh cho hai mẹ con sang bên này. Bấy giờ
ông mới thú nhận sau một chầu nhậu khi tỉnh dậy thấy mình nằm cạnh
cô cháu gái của người bạn, chỉ có hai mươi mốt tuổi. Sự thể xảy
ra người nhà cô gái làm rùm beng đòi thưa ra Công An, ông sợ mất
mặt nên đành phải nhận trách nhiệm. Bấy giờ bà mới vỡ lẽ và hiểu
thêm lý do tại sao ông thường hay nhận được điện thoại gọi từ Việt
Nam sang. Nhưng điều cay đắng và đau đớn cho bà hơn hết là ông đã
không nghĩ gì đến tình nghĩa vợ chồng hơn bốn mươi năm, ông nhứt
định ly dị với bà để bảo lãnh người bồ “nhí “cùng đứa con ở Việt
Nam. Buồn giận bà vào chùa tâm sự với vị sư trụ trì tìm đôi chút
bình an giải thoát cho tâm hồn. Nhà sư khuyên bà nên phát tâm Bồ
đề mở lòng hỉ xả, cho dù cô gái có mưu đồ và đứa con không phải
là con của ông nhà đi nửa, việc bảo lãnh họ qua bên này là một hành
động cứu vớt một đứa trẻ thơ, cho nó một tương lai sáng sủa hơn,
tức là bà đã tích phước, tạo nghiệp lành. Khi đối đãi với mọi người
bằng lòng vị tha, cái tâm tỉnh lặng như vậy, bà sẽ không còn cảm
thấy điêu đứng, khổ sở bởi chữ sân si. Hãy nhìn chung quanh còn
có biết bao nhiêu cặp vợ chồng nửa đường đứt gánh, âm dương đôi
ngã chia lìa chẳng phải là đau khổ hơn sao? Xưa nay ai cũng chọn
thà rằng sinh ly còn hơn tử biệt. Tuổi già thâm trầm, đời sống chẳng
còn sôi nổi bởi sức lực còn bao nhiêu nữa để lo lắng ghen tuông.
Nghe thế bà Tư mới ngộ ra rằng bà mới chính là người hạnh phúc
bởi thời gian bây giờ mới thực sự của mình vì không còn bị bó buộc
với bổn phận và trách nhiệm nữa. Sắp tới bà muốn đi chùa bất cứ
lúc nào bà muốn, dẫu có nghỉ ngơi đến hết buổi trưa, buổi chiều
cũng không ai quấy rầy. Có đi thăm người quen bạn bè cũng không
lo ngay ngáy cơm nước chưa xong, ngày mai sẽ nấu món gì, ăn sáng,
ăn trưa, ăn chiều, ăn tối! Bà không còn mặt đối mặt với cái bếp
lò cả ngày vào những lúc cuối tuần như trước, nồi cơm vừa bắc xuống
là nồi chè chuẩn bị bắc lên. Điều quan trọng là sau khi chia tay
ở đâu đó ông Tư vẫn còn hiện diện, thỉnh thoảng hai vợ chồng cùng
gặp lại ăn bữa cơm với đám con lũ cháu vui vẻ mà không cắng đắng
giận hờn nhau. Giống như lâu lâu mới ăn lại một món ăn ngon cũ nên
khi dứt bữa ăn vẫn còn thấy nhớ.
oOo
Mùa đông này là mùa đông thứ hai bà Tư về ở cùng gia đình cô con
gái Út Kim Sa sau khi ly dị. Số tiền được chia đôi sau khi bán nhà
bà mang bỏ vào ngân hàng lấy tiền lời hàng tháng. Nửa năm đầu thỉnh
thoảng hai ông bà gặp lại nhau trong những buổi họp mặt gia đình
của các con, vẫn vui vẻ như hai người bạn cũ. Thời gian sau ông
biệt dạng, nhiều lần bà Tư hỏi thăm mấy đứa con về ông nhưng chúng
chỉ trả lời qua loa là ba của chúng vẫn bình thường, cho đến ngày
hôm qua khi cô con gái chở bà đi cúng rằm tháng chạp mới thỏ thẻ
cho bà nghe về chuyện của ông :
"Kinh Phật có nói "Gieo nhân nào thì gặt quả đó "Chắc
ba bị quả báo vì đã bỏ má hồi hai năm trước"
Bà Tư chưng hửng hỏi dồn :
"Bộ có chuyện gì xảy đến cho ba mấy đứa con hả? mấy con có
chuyện gì giấu má phải không? ổng có khỏe không??”
Kim Sa cười trấn an :
"Ba chẳng có bệnh hoạn gì đâu. Có người nói ba bị vậy là tại
Trâu già còn ham gặm cỏ non"
"Như vậy là sao con? má không hiểu gì hết? "
"Má không hiểu cũng phải. Tụi con giấu đâu nói cho má biết
sợ má buồn. Hơn một năm nay ba về Việt Nam cưới vợ khác rồi. Con
nghe kể lại rằng : Ba về bên đó nhờ người tìm một cô vợ ; ba biết
"dò sông dò biển dễ dò..” nên đi tuốt về Đồng Tháp vô thiệt
sâu trong quê, chọn một cô gái chơn chất vừa quê, vừa xấu cho chắc
ăn. Cô này mới mười chín nhỏ tuổi hơn con nữa, cả gia đình đông
anh chị em và rất nghèo. Ba bỏ tiền ra cất nhà cho cha mẹ cô ta,
sắm sửa trang hoàng mọi thứ và cho tiền cả gia đình họ làm ăn sinh
sống nửa. Sau đó ba về bên này làm giấy bảo lãnh cô ấy qua, một
năm sau thì cô được sang bên này. Chưa đầy tháng cô ta đòi đi làm
cho bằng được không chịu ở nhà. Ba cũng có chuẩn bị sẵn rồi nên
chỉ tìm cho cô ta chỗ làm trong một xưởng may toàn là đàn bà con
gái. Vậy mà một hôm ba về nhà thấy có lá thư dằn trên bàn. Đại ý
nói là cô ấy không thể tiếp tục sống chung với ba được nửa vì sợ
người ta biết sẽ cười cô lấy một người đáng tuổi cha mình, cũng
không quên cám ơn ba đã bảo lãnh cô ấy qua bên này. Ba tức tối đi
tìm nhưng cô ta lánh mặt, Ba định đưa nội vụ ra luật pháp nhưng
có người khuyên ba nên bỏ qua, coi như làm phước, ai bảo ba già
rồi còn ham cưới vợ trẻ, vả lại cô ta bỏ đi không đòi ly dị chia
gia tài với ba là may lắm rồi. Ba ức lắm, viết thư về cho gia đình
cô ấy ở Việt Nam biết để họ có lời khuyên với con gái của mình,
nhưng rốt cuộc họ vẫn im lặng. Tính ra từ ngày cô ấy qua bên này
ở với ba không đầy ba tháng. Bây giờ thì ba ở một mình."
Kim Sa dịu giọng, liếc Bà Tư rồi ngập ngừng nói :
"Má à, hôm nọ anh Hai ghé thăm ba về kể lại, thấy ba bây giờ
ốm lắm, ba có vẻ ăn năn và hổ thẹn chuyện vừa qua, Ba không đề cập
thẳng mà chỉ nói xa gần là muốn trở về! Anh Hai không nói gì hết
vì nhà ba má giờ đã bán rồi và anh Hai không biết ý má ra sao?
Bà Tư cảm thấy tội nghiệp chồng. Hình như ở người vợ người mẹ
việt Nam nào, trái tim cũng chứa đầy lòng trắc ẩn và tình thương
sâu sắc vô bờ bến đối với chồng con của họ. Bà Tư nhớ lại ở trong
xóm cũ có gia đình cô Bảy ở trong căn nhà lá lụp xụp đối diện khoảng
sân trường học của xóm. Dượng Bảy là một người đàn ông lai Miên
không được đẹp người nhưng lại có tật ham mê vợ bé. Suốt cả quãng
đời luôn luôn làm khổ cô Bảy bằng cách bỏ nhà ra đi mèo mỡ hết người
này đến người khác, để lại đàn con năm đứa nheo nhóc cho một mình
cô nuôi nấng. Cô phải đi làm thuê. Làm mướn để nuôi con, thỉnh thoảng
dượng lại trở về thượng chân, hạ tay khi cô van nài, níu kéo dượng
ở lại nhà. Hầu hết những người vợ bé này chung đụng với dượng lâu
dài nhất chỉ độ một năm, thường khi là vài tháng hay nửa năm thôi.
Khi bị ruồng bỏ dượng lại quay trở về nhà và lần nào Cô Bảy cũng
vui mừng đón đợi xem như chẳng có việc gì xảy ra trước đó.
Có lẽ tình yêu của lớp người như bà Tư khác hẳn với lớp con cái
bây giờ. Bà Tư hiểu rất rõ lòng mình. Với thời gian và bổn phận,
chữ tình có thể bị xơ cứng, mòn mỏi nhưng cái nghĩa vẫn còn tồn
tại. Bà biết giữa hai ông bà có một thứ tình yêu đặc biệt nẩy sinh
từ tình nghĩa, cho dù không sôi nổi nhưng lại là một thứ tình yêu
lắng đọng, trầm mặc. Khi về già có phải người ta thường có tâm trạng
trở lại như thời con trai và con gái? đầy cảm xúc và nông nổi. Bà
Tư thấy cõi lòng rung động, trái tim bỗng đập mạnh giống như khi
nghe lời tỏ tình đầu tiên mà bà chưa hề biết đến. Thời gian qua
Bà Tư thấy được chuyện chăm sóc lo lắng cơm nước cho chồng đã trở
thành thói quen, một thứ tập quán mà bà không thể nào bỏ được, bà
thấy luyến tiếc chuỗi ngày bận rộn với ông Tư, thiếu vắng nó, bà
cảm thấy thời gian trở nên thừa thãi buồn tênh.
Bà Tư vội vàng nói với con gái :
"Không hề gì, ba má vẫn có thể ở nhà mướn, chắc phải mướn
căn nhà rộng rãi để tết này tất cả các con cháu về tụ họp mừng tuổi
ông bà."
Bỗng sực nhớ ra Kim Sa quay lại kể thêm :
“Má còn nhớ chuyện Ông Tám Banh, ông này tính chơi nước cờ cao
là không bảo lãnh cho cô vợ trẻ sang bên này như ba. Ông bỏ tiền
sang cho cô ta một cửa hiệu bán quần áo thời trang. Với dự định
mỗi nửa năm vào mùa đông lạnh bên này ông sẽ trở về thăm vợ giống
như con chim trốn tuyết. Ai dè lần thứ hai trở về, đợi mãi ngoài
phi trường không thấy ai ra đón, ông Tám xách hành lý thuê tắc xi
về nhà. Vừa bước vào cửa gặp ngay cô vợ chận lại hỏi ông đi tìm
ai? Khi ông cười xưng mình là người chồng của cô mới về, cô nghiêm
ngay nét mặt phủ nhận không biết ông là ai và cô chưa hề có chồng.
Rốt cuộc ông Tám đã phải khăn gói vào ở khách sạn cho đến ngày về.
Thế là mất toi các khoản tiền đã hao tốn để “mua” cô vợ trẻ."
Với nụ cười trên môi Kim Sa liến thoắng nói tiếp :
"Có người nói với ông Tám là "Xuân bất tái lai".
Ngụ ý có phải nói rằng tuổi xuân qua đi là không bao giờ trở lại.
Anh Hai thì giải thích một cách cụ thể ; các cụ ấy muốn hồi xuân
nhưng xuân chẳng chịu hồi..."
Cỏ Biển
|