1. LONG MẠCH
Long mạch được tạo nên do sự vận
hành của âm dương, thiên địa, ngũ hành, can chi, bát quái đầy vẻ
huyền bí nhưng các nhà phong thủy nhìn qua có thể biết được đất
nào là đất long mạch? Long mạch loại đại địa cuộc cao quý đứng
đầu địa linh được chia ra can long (thân), chi long (cành), cước
long (nhánh)...
Can long: đất đế vương, đất kinh sư (nơi đóng đô).
Chi long: đất lập tỉnh, phủ lỵ.
Cước long: đất lập huyện, quận lỵ. Đại can long có hình thế khúc
chiết vững vàng là yếu tố tiên quyết để lập quốc, hình thành một
quốc gia.
Long mạch tạo nên sự vận hành của khí, tương quan với
trời, đất, chòm sao, địa hình... Khí có chỗ bế, chỗ mở, chỗ phát
tán, nơi ngưng tụ, có khi hung, khi kiết, biến đổi tùy thời. Long
mạch là địa linh, đại can long là cực địa linh, muốn gắn bó lâu
dài với nó phải lấy nhân nghĩa làm nền tảng bởi "Đức trọng
quỷ thần kinh". Nếu chỉ biết bạo lực, hung tàn, đàn áp và khủng bố thì sợ
e không bền bởi: "Thiện tất thọ lão, ác tất tảo vong".
Sau đây chúng
tôi xin ghi lại đôi nét lịch sử qua các triều đại, để chúng ta
có thể nhìn thấy quy luật lịch sử rất công bằng đã và đang vận
hành chi phối mọi sự tồn vong của các triều đại mà không hề miễn
trừ bất cứ một triều đại nào.
2. ĐÔI NÉT LỊCH SỬ QUA CÁC TRIỀU ĐẠI:
Nhà Hồng
Bàng: (2879 TTL-258 TTL): 2621 năm 20 đời vua:
Lộc Tục Kinh Dương
Vương cháu 4 đời Vua Thần Nông làm vua nước Xích Quỷ, truyền ngôi
cho con là Sùng Lãm Lạc Long Quân. Lạc Long Quân phong cho con
trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương đóng đô ở Phong
Châu thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên bây giờ, truyền ngôi được
18 đời. Họ Hồng Bàng bắt đầu từ vua Kinh Dương Vương đến vua Hùng
Vương thứ 18 gồm 20 đời kéo dài 2.621 năm. Như vậy 18 đời Vua Hùng
Vương nước Văn Lang đóng đô ở Phong Châu phải có ít nhất 2.000
năm? Một con số huyền sử không xác thực, nhưng ý nghĩa mà huyền
sử muốn nói là nguồn gốc Rồng Tiên cao quý của dân tộc, thời đại
lập quốc của nước Văn Lang thái bình thịnh trị qua hàng nghìn năm
và kinh đô Phong Châu là một đại can long, đại long mạch.
Nhà Thục
(257 TTL-207 TTL) 50 năm 1 vua 1 đời:
Thục Phán An Dương Vương đặt tên nước là Âu Lạc đóng đô ở Phong
Khê (thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc An, Bắc Việt) hiện còn dấu
tích thành Cổ Loa.
Nhà Triệu (207 TTL-111 TTL) 96 năm 5 vua 5 đời:
Triệu Đà Triệu Vũ Vương đặt tên nước là Nam Việt đóng đô tại
Phiêng Ngung trên bờ Tây Giang gần Quảng Châu, Trung Hoa bây giờ.
Trưng
Nữ Vương (40-43): 3 năm 1 vua 1 đời: đóng đô ở Mê Linh (làng
Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên bây giờ).
Nhà Tiền Lý (544-602):
58 năm: 3 vua:
* Lý Bôn xưng Nam Việt Đế (544-548) đặt tên nước Vạn Xuân
đóng đô ở thành Long Biên làm vua 4 năm.
* Triệu Việt Vương: (549-571) 22 năm: 1 vua 1 đời: tức Triệu
Quang Phục xưng vương đóng đô ở thành Long Biên.
Hậu Lý Nam Đế:
(571-602) 31 năm: 1 vua 1 đời: tức Lý Phật Tử xưng đế hiệu đóng
đô ở Phong Châu (huyện Bạch Hạc tỉnh Hưng Yên).
Đời nhà Đường (618-907)
bên Tàu, nước ta bị đô hộ:
Vua Đường đổi An Nam thành Tĩnh Hải phong cho Cao Biền làm Tiết
Độ Sứ. Cao Biền trị dân có phép tắc nên được kính phục gọi tôn
lên là Cao Vương. Cao Biền cho đắp lại thành Đại La 4 mặt cao hơn
2 trượng ở bờ sông Tô Lịch, 4 mặt có đường đê bao bọc dài hơn 2.000
trượng, cao 1, 5 trượng, dày 2 trượng. Trong thành cho dân làm
nhà hơn 400.000 nóc. Ông là người ưa dùng phép phù thủy, sách VNSL
ghi: "Tục
lại truyền rằng Cao Biền thấy bên Giao Châu ta lắm đất đế vương, thường cứ cỡi
diều giấy đi yểm đất, phá những chỗ sơn thủy đẹp, và hại mất nhiều long mạch. "
Nhà
Ngô: (939-965): 26 năm: 4 vua:
* Tiền Ngô: Ngô Quyền (939-944) xưng vương mở đầu thời đại tự chủ,
đóng đô ở Cổ Loa (huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên) làm vua 5 năm:
đặt quan chức, chế triều nghi, định sắc phục, chỉnh đốn chính trị,
vua mất thọ 47 tuổi.
* Dương Tam Kha (945-950) cướp ngôi xưng là Bình Vương làm vua
5 năm
* Hậu Ngô (950-965): Ngô Xương Văn xưng là Nam Tấn Vương (15 năm)
mời anh là Ngô Xương Ngập cùng làm vua xưng là Thiên sách vương
(4 năm). Nhà Ngô rơi vào loạn thập nhị sứ quân.
Nhà Đinh (968-980)
12 năm 2 vua 2 đời:
Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng Đế (làm vua 11 năm) đặt tên nước
là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư cho xây cung điện, chế triều nghi,
định phẩm hàm quan văn võ.
Nhà Tiền Lê (980- 1009) 29 năm 3 vua
2 đời: Lê Hoàn xưng là Đại Hành Hoàng Đế, đóng đô ở Hoa Lư.
Nhà
Lý: (1010-1225) 215 năm gồm 9 vua 9 đời:
Lý Công Uẩn lên ngôi Lý Thái Tổ, tháng bảy năm Thuận Thiên nguyên
niên (1010) dời đô về thành Đại La, đổi Đại La thành Thăng Long
tức Hà Nội bây giờ, cải Hoa Lư làm Trường An Phủ, và Cổ Pháp làm
Thiên Đức Phủ.
Vua Lý Thái Tổ sùng đạo Phật, trọng đãi người tu hành, lấy tiền
kho làm chùa đúc chuông. Năm 1018, vua sai quan Nguyễn Đạo Thanh
và Phạm Hạc sang Tàu thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại
Hưng. Vua Tống phong làm Giao Chỉ quận vương, sau gia phong Nam
Bình Vương. Chiêm Thành và Chân Lạp đều sang triều cống, việc bang
giao được yên trị. Trong nước có đôi ba nơi làm loạn, nhà vua phải
thân chinh đi dẹp mới yên. Các hoàng tử đều phong tước vương và
phải cầm quân đi đánh giặc. Các công chúa thì coi việc thu thuế.
Nhà vua lưu tâm việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền
Lê, chia nước ra làm 24 lộ. Định ra 6 hạng thuế. Vua trị vì được
18 năm, thọ 55 tuổi.
Năm 1044 Vua Lý Thái Tông đánh chiếm kinh đô Phật Thệ (làng Nguyệt
Bậu, xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên) bắt Vương phi Mị Ê, các cung
nữ cùng 5.000 người và 30 con voi đem về. Vua Lý Thánh Tông làm
vua 18 năm, đổi tên nước là Đại Việt, năm 1069 đánh Chiêm bắt vua
Chiêm là Chế Củ, Chế Củ dâng 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (Quảng
Bình, Quảng Trị) để chuộc tội. Vua Lý Nhân Tông khởi đầu đắp đê
Cơ Xá, năm 1075 Lý Thường Kiệt sang đánh Tàu giết 10 vạn người,
bắt người lấy của mang về. Chiêu Thánh Công Chúa mới 7 tuổi lên
ngôi là vua Lý Chiêu Hoàng chỉ hơn 1 năm thì bị ép nhường ngôi
cho chồng là Trần Cảnh.
Nhà Trần: (1225-1400) 175 năm 12 vua 8 đời:
Năm 1225 Trần Cảnh lên ngôi Trần Thái Tông làm vua 38 năm đóng
đô ở Thăng Long chia nước làm 12 lộ, đắp đê 2 bên bờ sông Hồng
gọi là Đỉnh Nhĩ Đê đặt quan chánh phó coi việc đê. Thời Trần Thánh
Tông năm 1272 Lê Văn Hưu làm xong bộ Đại Việt Sử 30 quyển chép
từ Triệu Võ Vương đến Lý Chiêu Hoàng, nước ta có quốc sử từ đấy.
Năm 1257, 1284, 1287 quân Mông Cổ sang đánh nước ta. Năm 1383 Chế
Bồng Nga đánh chiếm Thăng Long.
Năm 1396, Hồ Quý Ly bắt vua Trần Thuận Tông dời đô vào thành Tây
Đô (thuộc xã Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, hiện còn
di tích) . Thành Thăng Long gọi là Đông Đô. Hồ Quý Ly bắt vua Trần
Thuận Tông nhường ngôi cho con mới 3 tuổi làm vua là Trần Thiếu
Đế đi tu tiên ở cung Bảo Thanh, núi Đại Lại (Thanh Hóa), sau Quý
Ly sai người giết vua Trần Thuận Tông, năm 1400 bỏ Trần Thiếu Đế
tự xưng làm vua.
Nhà Hồ: (1400-1407) 7 năm 2 vua 2 đời:
Năm 1400 Hồ Quý Ly xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng, đổi quốc hiệu
là Đại Ngu (Hồ thuộc dòng dõi nhà Ngu bên Tàu) làm vua được 1 năm
nhường ngôi cho con để làm Thái Thượng Hoàng.
Nhà Hậu Trần: (1407-1413)
6 năm 2 vua 2 đời: Giản Định Đế và Trần Quý Khoách kháng chiến
chống giặc Minh thất bại.
Nhà Hậu Lê (1428-1527) 99 năm 10 vua
6 đời:
Sai giết Trần Cao chết rồi, Bình Định Vương Lê Lợi có công dẹp
giặc Minh lên ngôi vua là Lê Thái Tổ năm 1428, đặt quốc hiệu Đại
Việt, đóng đô ở Thăng Long làm vua được 5 năm: chia nước làm 5
đạo. Xã 10 người gọi là tiểu xã, xã 50 người gọi là trung xã, xã
100 người gọi là đại xã. Nước ta xưa nay không có bản đồ, đến đời
vua Lê Thái Tông, vua sai quan các đạo vẽ địa đồ núi sông, ghi
chép sự tích gởi về bộ Hộ để làm quyển địa dư nước ta. Đến đời
Vua Lê Thánh Tông (vị minh quân) vua sai Ngô Sĩ Liên làm bộ Đại
Việt Sử ký chia làm 2 bản 15 quyển chép từ đời Hồng Bàng đến đời
vua Lê Thái Tổ. Cuối đời Hậu Lê loạn lạc: Trịnh Duy Sản giết vua
Lê Tương Dục lập vua Lê Chiêu Tông rước vào Tây Đô; Nguyễn Hoằng
Dụ đem binh về đốt phá kinh thành Thăng Long, Trần Cao đem quân
sang chiếm Đông Đô tự xưng làm vua, triều đình họp binh đánh, Trần
Cao bỏ chạy... Vua Lê Chiêu Tông nhờ Mạc Đăng Dung dẹp loạn, Mạc
Đăng Dung chuyên quyền, vua bỏ chạy lên Sơn Tây, Mạc Đăng Dung
lập vua Lê Cung Hoàng rước về ở Gia Phúc tỉnh Hải Dương. Năm 1524
Mạc Đăng Dung đem quân vào Thanh Hóa đánh Trịnh Tuy bắt vua Chiêu
Tông về Đông Hà sai người giết đi, năm 1527 bắt các quan nhà Lê
thảo chiếu truyền ngôi cho mình, Cung Hoàng và bà Hoàng Thái Hậu
đều bị giết.
Bắc Triều Nhà Mạc (1527-1592) 65 năm 5 vua 5 đời:
Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi lên làm vua là Mạc Thái Tổ được
3 năm thì nhường ngôi cho con về Cổ Trai làm Thái Thượng Hoàng.
Nhà Mạc đến năm 1592 thì bị Trịnh Tùng dứt, nhưng Mạc Kính Cung
và con cháu 2 đời được nhà Minh bênh vực còn giữ được đất Cao Bằng.
Nam
Triều Nhà Lê Trung Hưng: (1532-1599) 66 năm, 4 vua:
Năm 1532 Nguyễn Kim tôn Lê Duy Ninh lên ngôi là Lê Trang Tông
ở Ai Lao về đóng ở Sầm Châu (Thanh Hóa), năm 1543 chiếm Tây Đô
(Thanh Hóa), năm 1545 lập hành điện ở đồn Vạn Lại (huyện Thụy
Nguyên, tỉnh Thanh Hóa), Trịnh Kiểm giữ binh quyền.
Nhà Hậu Lê thời
Trịnh Nguyễn phân tranh: (1600-1788) 188 năm 12 vua 8 đời:
Vua Lê Kính Tông lên ngôi làm vua được 19 năm thì bị Trịnh Tùng
giết. Đến đời vua Lê Mẫn Đế niên hiệu Chiêu Thống năm 1788 bị Tây
Sơn đánh bại chạy sang Tàu cầu cứu.
Đời Nhà Trịnh (Chúa Trịnh):
(1592-1786) 194 năm 10 chúa 8 đời:
Trịnh Tùng tranh quyền của anh nối nghiệp Trịnh Kiểm, năm 1592
dứt nhà Mạc lấy lại thành Thăng Long, rước vua Lê ra. Năm 1599
thông sứ tốt với nhà Minh chịu nhường đất Cao Bằng cho con cháu
nhà Mạc, tự xưng Bình An Vương phù Lê lập nên nghiệp chúa Trịnh.
Nhà Trịnh đánh nhau với chúa Nguyễn 7 lần, năm 1775 sai Hoàng Ngũ
Phúc vào đánh chiếm Phú Xuân, Quảng Nam, chúa Nguyễn chạy vào Gia
Định. Năm 1786 Nguyễn Huệ ra đánh Bắc Hà bắt được Chúa Trịnh Khải,
Khải tự vẫn.
Nhà Nguyễn (Chúa Nguyễn): (1558-1777) 219 năm 9 chúa,
9 đời:
Năm 1558, Chúa Tiên Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận
Hóa đóng dinh tại xã Ái Tử, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Năm
1570 dời vào làng Trà Bát cùng huyện gọi là Cát Dinh, làm Chúa
được 55 năm. Năm 1626 chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời vào làng
Phúc An huyện Quảng Điền tỉnh Thừa Thiên đổi chỗ tư sở thành phủ.
Năm 1636, chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan dời phủ vào làng Kim Long
huyện Hương Trà tỉnh Thừa Thiên. Năm 1687 chúa Nguyễn Phúc Trăn
dời phủ về làng Phú Xuân tức Cố Đô Huế bây giờ gọi là chính dinh.
Chỗ phủ cũ làm Thái Tông Miếu thờ chúa Hiền. Năm 1702, chúa Nguyễn
Phúc Chu sai người sang cống vua Thanh để xin phong, nhưng Thanh
triều nói rằng nước Nam còn họ Lê nên không phong được. Nguyễn
Phúc Chu tự xưng là Quốc Chúa đúc ấn Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa
Vĩnh Trấn Chi Bảo để truyền quốc bảo đến đời vua Gia Long mới thôi.
Năm 1744 Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu, đổi phủ ra
điện, sửa sang phép tắc, đổi lại chế độ, định triều nghi, chia
nước thành 12 dinh.
Đất Đàng Trong tuy độc lập nhưng Họ Nguyễn chỉ xưng chúa và không
đặt quốc hiệu nên người ngoại quốc thường gọi là Quảng Nam Quốc.
Năm 1692, lấy hết đất Chiêm, năm 1757 lấy hết đất Thủy Chân Lạp.
Nhà
Nguyễn Tây Sơn (1778-1802) 24 năm 3 vua 2 đời:
Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng đế ở Qui Nhơn làm vua từ Quảng Nam trở
vào, từ Phú Xuân trở ra thuộc nhà Lê. Năm 1784, Nguyễn Huệ đánh
tan quân Tiêm La ở đất Gia Định. Năm 1786, Nguyễn Huệ lấy thành
Phú Xuân ra Bắc Hà diệt họ Trịnh. Năm 1788, quân Thanh sang đánh
chiếm thành Thăng Long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng
đế đặt niên hiệu Quang Trung dẫn quân ra Bắc đánh tan quân Thanh,
sau cho người sang dâng biểu xin phong, vua nhà Thanh sai sứ sang
phong Ngài làm An Nam Quốc Vương, làm vua 4 năm thì mất.
Nhà Nguyễn:
(1802-1945) 143 năm 12 vua 7 đời:
Vua Nguyễn Thế Tổ Gia Long khởi binh tại Gia Định năm 1778, năm
1780 xưng vương, năm 1801 chiếm thành Phú Xuân, dứt nhà Tây Sơn.
Năm 1802 lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Việt Nam đóng đô ở
Phú Xuân tức nội thành Huế bây giờ. Năm 1804, vua Thanh sai sứ
sang phong vương, năm 1806 làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Hòa,
định triều nghi cứ rằm mùng một thiết đại triều, mồng 5, 10, 20,
25 thiết tiểu triều, không đặt ngôi hoàng hậu chỉ có hoàng phi
và các cung tần, bỏ chức tể tướng, mọi việc đều do lục bộ trông
coi, chia nước làm 23 trấn 4 doanh. Đến đời Vua Minh Mạng đổi quốc
hiệu là Đại Nam, năm 1836 đặt Tôn Nhân Phủ, đặt quan chức coi mọi
việc trong họ nhà vua, đặt 7 miếu thờ tiên tổ, miếu bên tả gọi
là chiêu, miếu bên hữu gọi là mục, con cháu dòng chiêu hay mục
phải phân biệt chi nào ra chi nấy. Mọi người trong hoàng tộc đều
được nuôi nấng cấp tước lộc.
Năm 1858 chiến thuyền Pháp và I-Pha-Nho
đánh Đà Nẵng. Năm 1862 ký hòa ước Nhâm Tuất 12 khoản cắt 3 tỉnh
Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp. Năm 1867, quân Pháp đánh
chiếm Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, Phan Thanh Giản uống thuốc
độc tự tử. Năm 1873, quân Pháp hạ thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương
tử tiết. Năm 1882 quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội, Hoàng Diệu
thắt cổ tự tử.
Nhà Nguyễn truyền ngôi đến năm 1883 là năm
vua Tự Đức mất cũng mất quyền tự chủ, tuy ngôi vua còn nhưng đất
nước bị Pháp đô hộ. Năm 1884 Hòa ước Patenôtre định thể lệ bảo
hộ.
Từ năm 1945 đến nay nước ta có 3 thủ đô:
* Huế: Thủ đô của Chính phủ Thủ tướng Trần Trọng
Kim, Quốc trưởng Bảo Đại.
* Sài Gòn: Thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa: (1954-1975):
21 năm gồm các thời chính: Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại tướng
Dương Văn Minh, Đại tướng Nguyễn Khánh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
* Hà Nội: Thủ đô của Nhà Nước Cộng Sản Việt Nam
(Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam):
đến nay là 60 năm gồm 1 đời Chủ tịch Hồ Chí Minh, và 6 đời Tổng
bí thư: Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả
Phiêu, Nông Đức Mạnh.
Trong suốt lịch sử, nước ta có nhiều quốc
hiệu: Văn Lang, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Ngu, Việt
Nam, Đại Nam...
Nhiều kinh đô, thủ đô: Phong Châu (Vĩnh Yên), Phong
Khê (Phúc An), Mê Linh (Phúc Yên), Long Biên, Vạn Xuân, Đại La
(Hà Nội), Cổ Loa (Phúc Yên), Hoa Lư, Thăng Long (Hà Nội), Tây Đô
(Thanh Hóa), Đông Đô (Hà Nội), Vạn Lại (Thanh Hóa) Ái Tử (Quảng
Trị), Phú Xuân (Huế), Qui Nhơn (Bình Định), Gia Định, Sài Gòn,
Huế, Hà Nội.
Nước Văn Lang và kinh đô Phong Châu kéo dài hàng ngàn năm.
Nước
Đại Việt: xuất hiện từ thời nhà Lý do vua Lý Thánh Tông (1054-1072)
đặt, đến hết đời nhà Lý (171 năm) đời Trần (175 năm), đời Hậu Lê
(255 năm), đời Tây Sơn (14 năm) tổng cộng trên 600 năm.
Thủ đô Hà
Nội xuất hiện từ thời Lý Nam Đế gọi là Long Biên (4 năm), thời
Triệu Quang Phục gọi là Long Biên (22 năm), thời nhà Đường đô hộ
bắt đầu từ Cao Biền xây thành Đại La khoảng năm 866 đến hết thời
Đường đô hộ khoảng 40 năm, năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng
Long đến năm 1788 Tây Sơn diệt nhà Hậu Lê khoảng 700 năm, Hà Nội
từ năm 1945 đến nay: 60 năm, tổng cộng thời gian Hà Nội được sử
dụng làm kinh đô khoảng trên 800 năm.
Tóm lại trải qua hàng ngàn
năm lịch sử có 3 quốc hiệu được dân tộc ta sử dụng lâu dài nhất
là Văn Lang, Đại Việt, Việt Nam. Có 3 kinh đô được sử dụng lâu
dài nhất là Phong Châu, Hà Nội, Huế. Phong Châu, Huế đã trở thành
cố đô, Hà Nội hiện đang là thủ đô.
3. THĂNG LONG ĐẤT ĐẠI CAN LONG, ĐẠI LONG MẠCH
Nếu
Thủ đô Hoa Thịnh Đốn là đất đại can long, đại long mạch của Hoa
Kỳ nằm trên bờ sông Potomac, thì Hà Nội tức Thăng Long xưa là đất
đại can long, đại long mạch của Việt Nam nằm trên bờ sông Hồng
Hà. Người Hoa Kỳ không biết có học phong thủy không nhưng khi xây
Tòa Nhà U.S. Capitol họ đã xây trên ngọn đồi nhìn về hướng Tây
trông ra dòng sông Potomac, nơi có Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington,
Đài Kỷ Niệm Washington, Đài Tưởng Niệm A. Lincoln, Đài Tưởng Niệm
T. Jefferson, Đài Tưởng Niệm F.D. Roosevelt, (những
biểu tượng của hồn thiêng sông núi) và thực hiện đúng câu "Tiền
đê hậu cao" (trước thấp
sau cao) trong phong thủy.
Mùa Thu năm Canh Tuất (1010) từ kinh
đô Hoa Lư, Vua Lý Thái Tổ ban lệnh dời đô, thuyền ngược dòng Hồng
Hà cập bến Đại La nơi đô cũ của Cao Biền lúc trước. Khi ra đến
La Thành, Vua Thái Tổ lấy cớ nằm mộng trông thấy rồng vàng hiện
ra bèn đổi thành Đại La thành thành Thăng Long. Việc xây dựng kinh
thành theo Giáo sư Phan Huy Lê: "Buổi đầu đã sử dụng
tòa thành này cùng một số kiến trúc có sẵn rồi sửa sang xây dựng
thêm những cung điện mới".
Kinh thành đại thể được giới hạn
bằng ba con sông: mặt Đông là sông Hồng, mặt Tây mặt Bắc là sông
Tô Lịch, mặt Nam là sông Kim Ngưu. Kinh thành chia 2 phần:
Hoàng
Thành nằm trong lòng kinh thành, gần Hồ Tây nơi có cung điện hoàng
gia và chỗ thiết triều, cấm thành nơi ở của hoàng gia gọi là Long
thành. Điện Kiền Nguyên là điện chính nơi vua làm việc, hai bên
tả hữu là điện Tập Hiền, Giảng Vũ. Bên trái mở cửa Phi Long thông
với cung Nghinh Xuân. Bên phải mở cửa Đan Phượng thông với cửa
Uy Viễn. Chính Bắc dựng điện Cao Minh, đằng sau là cung Thúy Hoa
nơi các cung phi ở. Bao bọc các cung điện là một bức tường thành
bảo vệ gọi là Long Thành với 10 cấm quân canh gác ngày đêm. Các
công trình thổ mộc đẹp đẽ, cách chạm trổ trang sức khéo léo.
Qua
các triều đại sơ lược trên đây, chúng ta thấy Nhà Lý là một triều
vua nhân đức hơn hết, do đó cũng được thịnh trị hơn hết, lâu dài
hơn hết.
Lý Công Uẩn lên ngôi không giết một sinh mạng, trong khi
Nhà Trần, Trần Thủ Độ giết gần hết hoàng tộc nhà Lý. Nhà Hồ, Hồ
Quý Ly giết vua Lê Thuận Tông, công thần: Trần Khát Chân cùng 370
người. Nhà Lê, Lê Lợi giết Trần Cao, công thần Trần Nguyên Hãn,
Phạm văn Xảo. Nhà Mạc, Mạc Đăng Dung giết vua Lê Chiêu Tông, vua
Lê Cung Hoàng, bà Hoàng Thái Hậu và vô số triều thần Nhà Lê khác.
Nhà Nguyễn, Vua Gia Long tùng xẻo vua tôi Nhà Tây Sơn, đào mồ cắt
đầu anh em Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc bỏ giam trong ngục tối, giết
hại công thần Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường.
Hoàng tộc nào
được ngồi không hưởng bổng lộc xa hoa? Riêng hoàng tộc nhà Lý thì
hoàng tử phải đi đánh giặc, công chúa phải đi thu thuế, cung nữ
phải học nghề thêu dệt gấm vóc.
Vua Lý Thái Tổ lên ngôi cho xây
chùa thỉnh kinh.
Vua Lý Thái Tông "bao giờ cũng để lòng thương
dân. Hễ năm nào đói kém hay là đi đánh giặc về, thì lại giảm thuế
cho hàng hai ba năm - VNSL" nhà vua không giết hai người em
phản nghịch mà còn phục lại chức cũ, nhà vua hạ chiếu cấm không
cho ai được mua người để làm nô lệ. Còn Lý Thánh Tông là "một
ông vua nhân từ, có lòng thương dân; một năm trời rét, Thánh Tông
bảo những quan hầu gần rằng: "Trẫm ở trong cung ăn mặc như
thế này còn rét, nghĩ những tù phạm giam trong ngục, phải trí buộc,
cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi
chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương
lắm." Nói rồi truyền lấy chăn chiếu cho
tù nằm và mỗi ngày cho hai bữa ăn. Lại có một hôm Thánh Tông ra
ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên Công Chúa đứng hầu
bên cạnh. Thánh Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng: "Lòng
trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại
làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì
cũng giảm nhẹ bớt đi." Vua Thánh Tông có nhân như thế cho
nên trăm họ mến phục, trong đời Ngài làm vua ít có giặc giã. Ngài
lại có ý muốn khai hóa sự văn học, lập văn miếu, làm tượng Chu
Công Khổng Tử và 72 tiên hiền để thờ. Nước ta có văn miếu thờ Khổng
Tử và chư hiền khởi đầu từ đấy. - VNSL ".
Việc binh chính,
binh pháp nhà Lý thời Lý Thánh Tông "có tiếng là giỏi,
nhà Tống bên Tàu phải bắt chước, ấy là sự vẻ vang cho nước mình
bao nhiêu? - VNSL" Nhà Lý đem binh đánh tới Quảng Đông Quảng
Tây nước Tàu là lần duy nhất trong lịch sử và cũng là triều đại
mở đầu cuộc Nam Tiến chiếm đất bắt vương phi Chiêm Thành. Trần
Trọng Kim viết: "Nhà Lý có công làm
cho nước Nam ta nên được một nước cường thịnh: ngoài thì đánh Tàu,
bình nước Chiêm, trong thì chỉnh đốn việc võ bị, sửa sang pháp
luật, xây vững cái nền tự chủ."
Vua Lý Thái Tổ là một vị minh
quân nhân đức mới 3 tuổi đem cho nhà sư chùa Cổ Pháp là Lý Khánh
Văn làm con nuôi đặt tên là Lý Công Uẩn, sau theo học sư Vạn Hạnh.
Lớn lên vào Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê đến chức Tả Thân Vệ Điện
Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi lên ngôi ngài thấy Hoa Lư chật hẹp và cũng
sáng suốt nhìn thấy thành Đại La đô cũ của Cao Biền khi xưa nằm
trên bờ sông Hồng Hà là một đại can long, một "thắng địa" thuộc
hàng đại long mạch lý tưởng: "Xem
khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu
của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời....
- Chiếu dời đô - Lý Công Uẩn".
Càng đắc địa hơn, trước khi
chảy đến Thăng Long, dòng Hồng Hà ngoằn ngoèo uốn khúc để tạo nên
một vùng cát địa có đại long mạch tầm cỡ "thượng đô
kinh sư". Và trước khi ra biển, dòng sông ngoái lại nhìn rồi
tỏa ra tạo thành những chi long, cước long, bàng long lung linh
như một bức gấm thêu giữa vùng non nước hữu tình. Địa huyệt kết
nơi cao nhất có tên là núi Nùng. Thiên huyệt kết chỗ thấp nhất
có tên là Hồ Hoàn Kiếm nơi Thần Kim Quy hiện ra báo hiệu điềm lành.
Tuy nhiên khác với Hoa Lư, địa thế Thăng Long trống trải, đã bao
lần bị quân Tàu, quân Pháp đánh chiếm, ngay Chế Bông Nga vua Chiêm
cũng đã 3 lần ra chiếm Thăng Long đốt phá lấy sạch vàng bạc châu
báu và bắt con gái mang về.
Muốn đại can long, đại long mạch lưu
phúc trạch lâu dài cho con người, con người phải có đại nhân đại
đức, lấy đức báo oán, lấy đức đối đãi với bá tánh và mưu cầu cho
bá tánh có một đời sống xứng đáng là con người đúng với hai chữ
hạnh phúc ấm no. Hễ đức càng nhiều thì vận càng dài, đức cạn thì
vận tuyệt.
4. CON SỐ 8 HUYỀN BÍ
Niên hiệu Thuận Thiên năm
1010, Vua Lý Thái Tổ thỉnh Thiền sư Vạn Hạnh về làm Quốc sư, sau
khi dời đô về Thăng Long, Ngài nhanh chóng thiết lập nền tảng cơ
sở đạo đức và tôn giáo: xây 8 ngôi chùa tại phủ Thiên Đức, năm
1018 sai người sang Tàu thỉnh kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại
Hưng. Các nhà phong thủy cho rằng Ngài đã thông hiểu những bí mật
của đại can long đại long mạch Thăng Long. Con số 8 huyền bí như
một lời khẩn cầu cho quốc thái dân an tu nhân tích đức và cũng
là con số giới hạn đối với chủ nhân của đại can long đại long mạch
Thăng Long. Quả là một con số 8 huyền bí nếu chúng ta chịu khó
lược qua sự tồn vong của các triều đại:
Nhà Lý do Vua Lý Thái Tổ
dựng lên đóng đô trên đất đại can long đại long mạch Thăng Long
215 năm tính từ đời Ngài cho đến đời Lý Huệ Tông bỏ cung vàng đi
tu vừa đúng 8 đời thì cơ nghiệp triều chính lọt vào tay Nhà Trần.
Tính thêm đời vua Lý Chiêu Hoàng là 9 đời, nhưng đời vua này trên
thực tế có cũng như không, vì do Trần Thủ Độ đạo diễn đưa lên làm
vua mới có 7 tuổi và chỉ 14 tháng sau thì bị ép phải nhường ngôi.
Nhà
Trần làm chủ Thăng Long từ đời Trần Thái Tông đến Trần Thiếu Đế
được 175 năm gồm 12 vua 8 đời.
Nhà Hồ 7 năm 2 vua 2 đời
Nhà Hậu Lê 99 năm 10 vua 6 đời
Nhà Mạc 65 năm 5 vua 5 đời
Nhà Lê Trung Hưng 66 năm 4 vua 4 đời
Nhà Hậu Lê Thời Trịnh-Nguyễn: 188 năm 12 vua 8 đời
Nhà Trịnh 194 năm 10 chúa 8 đời
Đại can long đại long mạch là gì
mà có một sự tác động ghê gớm như thế? Và con số 8 kể từ thời Lý
Thái Tổ đến nay đã gần 1.000 năm mà vẫn chưa có một triều đại nào
(đóng đô trên đất Thăng Long) vượt qua kể cả những triều đại hiễn
hách trong lịch sử?
Phải chăng sự tác động của đại can long đại
long mạch là điều có thật? Phải chăng kiến thức huyền bí về long
mạch đã bị chiến tranh thiêu hủy hay thất truyền nên ngày nay chúng
ta không thể lý giải nổi dù chúng ta vẫn tin vào quy luật nhân
quả đang hiện hữu và chi phối con người từng giờ từng phút.
5. DẤU XƯA XE NGỰA HỒN THU THẢO
Nhắc đến hai chữ
Thăng Long, người ta ngậm ngùi nhớ đến Bà Huyện Thanh Quan thời
Nhà Nguyễn với bài thơ trầm buồn Thăng Long Thành Hoài Cổ:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Và mới đây trên báo Trẻ
Florida số 83A ngày 21/10/2005 có đăng bài viết "Cổ
Thụ, Dấu Vết Của Lịch Sử" của tác giả Dương Quốc Trung, khi
đọc đoạn văn viết về Thăng Long xưa-Hà Nội nay sau đây chắc chúng
ta không khỏi thấm thía bùi ngùi: "Chùa Một Cột hay đình Diên
Hựu xưa sử sách chép niên đại có từ rất sớm gắn với triều Lý thịnh
Phật, những kiến trúc hôm nay chứng kiến mới chỉ được dựng lại
chưa đầy nửa thế kỷ, sau khi đã bị phá hủy hoàn toàn vào năm 1954.
Thành Thăng Long xây từ đời Lý qua đời Trần, Lê... sử sách mô tả
bề thế mà đến cuối thế kỷ trước, đầu thế kỷ này bị chiến tranh
tàn phá không còn gì. Một mảnh tường ngoài cổng thành cửa Bắc còn
lưu vết đạn (...)
Gở tấm bản đồ xưa của Thăng Long-Hà Nội, ta sẽ
thấy hình vẽ, tên gọi những con sông. Tô Lịch, Kim Ngưu, Lũ, Thiên
Phù, Sét... mà nay đã biến mất hoặc chỉ còn dấu tích tàn tạ. Những
dấu vết kiến trúc của nơi tụ cư xưa nhất mà ta hay gọi là "36
phố phường" còn lại là bao?".
VINH
HỒ
Tài liệu tham khảo:
- Việt Nam Lược Sử, Trần Trọng Kim, Bộ Giáo Dục Trung Tâm Học Liệu
Xuất Bản năm 1971
- Thăng Long Lược Phong Thủy Ký, Vũ Phong Lưu (VNN)
- Thăng Long Hà Nội Cổ Xưa
- Dấu Vết Bản Đồ <http://lichsuviet.cjb.net/view_article>
|