Hoàng Thiếu Khanh
Những bài thơ trong tập Làm Quan ở Bắc Hà ( 1802 - 1804)
Ký hữu
Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh
Thiên lý Trường An thử dạ tình
Thái phác bất toàn chân diện mục
Nhất châu hà sự tiểu công danh
Hữu sinh bất đái công hầu cốt
Vô tử chung tâm thỉ lộc minh
Tiển sát bắc phong cao ngọa giả
Bình cư vô sự đáo hư linh
( Gửi bạn
Đêm nay nơi núi Hồng vầng trăng sang vằng vặc
Trường An nghìn dặm, thấy lòng mình ngao ngán đêm nay
Viên ngọc trong đá không giữ tròn bộ mặt thật
Công danh nơi xứ nhỏ có sá gì
Sinh ra chẳng mang xương cốt của đấng công hầu
Chưa chết thì chỉ còn làm bạn với đám nai tơ
Thèm được nằm nghỉ ở cửa sổ phía bắc
Sống bình thường, không sự gì vướng bận tâm hồn )
Núi Hồng trăng lẻ chiếu lung linh
Nghìn dặm Trường An một mối tình
Ngọc đá chưa tròn khuôn mặt thật
Sá gì tỉnh nhỏ chút công danh
Sinh ra không có xương làm lớn
Chưa chết chỉ quen nai trên ghềnh
Thèm được nằm chơi song cửa bắc
Sống thương vô sư quấy tâm linh
HTK
Trường An, một thành phố nổi tiếng thời chiến quốc nơi tụ họp
của nhiều nhân tài và
các đấng phong lưu tứ xứ, ám chỉ thành Thăng Long tức Hà Nội bây
giờ.
Thái phác là ngọc khi còn ở thể thô sơ chưa gọt đẽo. Vua Tề đòi
Nhan Xúc vào yết kiến và có ý trọng dụng. Xúc đáp rằng ngọc trong
đá mà phá đi sẽ mất vẻ đẹp và cái quí thô sơ. Người có tài sống
nơi thôn dã khi ra làm quan thì cũng giống thế. Ý nói ra làm quan
cho nhà Nguyễn, chẳng qua chỉ là sự gượng ép mà thôi
Đào Tiềm đời Tấn có viết bài thơ rằng: Tháng năm tháng sáu, nằm
chơi dưới cửa sổ phía Bắc, nghe gió thỏa hây hây, tưởng mình là
dân Hy hoàn ( thời tiền sử). Câu này có ý tả cuộc đời đơn sơ gần
với thiên nhiên.
La Phù giang, thủy các độc tọa
Thủy các các hạ giang thủy thâm
Thủy các các thượng vân trầm ngâm
Du du vân ảnh biến thần tịch
Cổn cổn lãng hoa phù cổ kim
Trần thế bách niên khai nhãn mộng
Hồng Sơn thiên lý ỷ lan tâm
Bồi hồi đối cảnh độc vô ngữ
Bạch phát sổ hành thùy ngã khâm
( Ngồi một mình ở đài Thủy các bên sông La Phù
Dưới đài Thủy các nước sông sâu
Trên đài Thủy các người ngồi trầm ngâm suy nghĩ
Bóng mây trôi lang thang biến đồi sớm chiếu
Cuồn cuộn hoa sóng lôi cuốn cả mọi sự xưa nay
Trăm năm cuộc thế chỉ là giấc mơ khi mở mắt
Ngàn dặm núi Hồng lòng ngùi nhớ tựa bên song cửa
Trước cảnh dạ bồi hồi không thốt nên lời
Tóc bạc sổ hàng rủ xuống vạt áo ta )
Dưới đài Thủy các nước sông sâu
Trên đài Thủy các người ngồi rầu
Sớm chiến mây nổi nhiều thay đổi
Hoa sóng loạn cuồng cuốn nay xưa
Trần thế trăm năm là giấc mộng
Núi Hồng nghìn dặm tựa song thưa
Bồi hồi trước cảnh buồn không nói
Tóc bạc sổ hàng phủ khăn thô
HTK
Sơ nguyệt
Hấp đắc dương quang tái thướng thiên
Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên
Thường nga trang kính vi khai hạp
Tráng sĩ loan cung bất thướng huyền
Thiên lý quan san vô cải sắc
Nhất đình sương lộ cộng sầu miên
Bồi hồi chính ức Hồng Sơn dạ
Khước tại La phù giang thủy biên
( Trăng non
Hút ánh sáng mặt trời lúc vừa mới ló lên bầu trời
Mùng ba, mùng bốn dạng chưa tròn
Mảnh gương ả Hằng vừa hé nắp hộp
Vòng cung của tráng sĩ chưa lên dây
Ngàn dặm sơn khê chưa đổi sắc
Đấy sân sương móc cùng buồn bã ngủ với nhau
Bồi hồi nhớ lại mới đêm nào dưới núi Hồng
Mà bây giờ đã ở bên bờ nước sông La phù. )
Hút được nắng trời khi mới lên
Mùng ba mùng bốn chưa tròn viền
Mảnh gương ả Hằng vừa mới hé
Tráng sĩ cung dài chưa lấp tên
Ngàn dặm núi sông chưa đổi sắc
Trước sân sương móc ngủ triền miên
Núi Hồng nhớ đến đêm ngày trước
Mới đó La phù nước chảy bên
HTK
Sông La Phù: Tên một con sông không rõ địa phương theo nhiều
sách. Tuy nhiên ta có thể đoán sông này nằm ở vùng Nghệ Tỉnh( Nghệ
An – Hà Tỉnh). Thành Nghệ An ngày xưa gọi là La Thành.
( Còn tiếp)
|