Vũ Hoàng Thư
lẳng giò hoa
em cười lúm
mùa nắng
Nắng vỡ xuống chòm lá trải vàng một màu xoài chín lịm. Chất ngất
mật ngọt hạ. Say nồng nung bốc không gian thành một màu trắng lập
lòa thị giác. Bây giờ trắng là kết tinh quang phổ, của những xanh
hy vọng biển khơi khấp khởi, những tím chiều đợi chờ hoàng hôn,
và của vàng rực rỡ lên dòng sông cuối ngày. Và sông trôi đi mang
theo thơ dại hồng hoang. Lung linh trắng của hoa nắng vẽ bâng quơ
dưới hàng cây theo âm điệu kèn nghẹn vút cao rồi trầm đục. Tiếng
kèn lùa ngập không gian xới vòng luống nhớ. Nhạc sĩ gọi nắng về
pha lên áo, cho áo thôi là áo, cho người con gái loãng tan vào
nắng. Đâu là nắng, đâu là áo ? Chỉ còn một niệm tình trên vùng
lân hư bay về vòng gáy trắng.
Tôi đứng đó một ngày tháng sáu nhớ
về một ngày tháng sáu nắng đứng ở quê nhà. Nắng đứng vì mặt trời
chiếu thẳng vào đỉnh đầu, tia thẳng không còn chếch, mười hướng
nắng chang, mọi sự như ngừng. Khi đó gọi là ngọ, còn gọi là trùng
bóng vì người và bóng nhập làm một giữa trưa. Tuổi nhỏ mẹ cấm đi
chơi giờ ngọ vì giờ đó người đi sẽ không có bóng giống như ma quỷ,
chúng sẽ tưởng là đồng loại và hớp lấy thần hồn. Thì ra thế, người
khác ma quỷ ở một chiếc bóng. Có ai ngờ với chiếc bóng con người
còn ranh mãnh hơn cả quỷ ma. Người ôm lấy cái bóng mình, mặc cho
nó những chiếc áo giống như mình đang mặc. Chiếc áo lãnh tụ, chiếc
áo khoa bảng, chiếc áo tu hành, đôi khi chỉ là những chiếc áo thuê,
chiếc áo đóng tuồng. Dầu những chiếc áo rách nát tả tơi theo luật
đào thải của thời gian nhưng cái bóng vẫn bám lấy áo xưa. Người
và bóng say sưa sống trong vai tuồng quá khứ đã mất, khó biết được
đâu là người, đâu là bóng. Như thế hàng ngày họ lên đồng, quên
mất vào giờ ngọ họ sẽ đi đứng múa may quay cuồng như những con
ma thiếu bóng.
người nhìn xuống
bóng bỏ đi
giờ ngọ
Hãy gọi nắng về cho tan hết những bóng ma, cho người con gái loãng
tan vào nắng. Nàng sẽ vẽ màu lên thành quách đen đúa của hoàng
thành. Phía đó Thành Nội nung nóng trên bờ tường rêu. Hồ sen đứng
gió mặt phẳng lì. Trong im ắng nhiệt đới, những nụ sen non vừa
nhú, mơn mởn hồng. Từ rong rêu buồn bã, sen chồi lên hít thở lấy
không gian xanh ở trên. Một phương thế tự tại mà từ ngàn xưa lối
ngồi kiết già bắt nguồn từ hình ảnh một nụ sen, padmasana, đã được
Ấn độ giáo và Phật giáo áp dụng trong lúc tham thiền nhập định.
Dáng ngồi như một khuôn hình tam giác đứng, đầu là chóp đỉnh thông
tri cùng năng lực vũ trụ bên ngoài, bề đáy của tam giác là bàn
tọa vững chắc không lay chuyển, tứ chi từ đó tỏa ra như cánh sen
nở hoa. Nhân cách trí tuệ Đông Phương hiện rõ ngay ở cả một thế
ngồi. Mùa nước khô hay mưa ngập nước, sen thích nghi lên xuống
theo môi trường mà không mất rể. Thảnh thơi làm sao khi không phải
bám víu, ràng buộc vào đâu. Hoa vương lên, nuôi dưỡng bằng địa
ngục bùn đen bên dưới. Con người đánh mất sự an nhiên về thực tại
trước mặt khi ý niệm sinh khởi từ những cặp đôi trong vòng đối
đá, thiên đàng – địa ngục, hạnh phúc – khổ đau. Sen không bận
tâm như thế, sen vẫn là sen cho dù ở trên không hay ở dưới bùn.
Cứ thế sen nở và thả hương bay từ tốn. Như nhiên trong cái đương-là.
Một ngày nắng tháng sáu bên hoàng thành ở Huế, sen kể tôi nghe
về nhất thể trong hàm hỗn nhị nguyên.
trong gió đưa
hương sen nở
tịnh tâm
Không có phượng sẽ không có hè và lớp học. Hối hả chạy ùa khỏi
cổng trường giờ tan lớp, tuổi thơ đi bắt nắng. Bắt cánh chuồn chuồn
và bắt thinh không khi chuồn chuồn cất cánh. Cuối cùng ta bỏ lại
ngôi trường, bỏ lại những con đường bước cũ. Cứ thế người chạy
theo cuộc bắt nắng dài thật dài. Một vài điểm mốc đâu đó khiến
ta ngừng lại ngắm và nhớ. Nhớ lao lung trong ngày ắp nắng nghe
Huế tỉ tê một điệu Nam Ai buồn. Tỉ tê trên hàng phượng đỏ ngập
góc phố. Nhớ đến hàng phượng tím Jacaranda thơm ngát mùa hè cách
một nửa địa cầu. Jacaranda có dần dà thay thế được phượng đỏ trong
lòng người lưu vong? Tiếc nuối hay không tiếc nuối về một sắc màu
đã không tìm lại được muôn đời vẫn là câu hỏi không có câu trả
lời. Tôi bước trên đường Trần Hưng Đạo, con phố chính của Huế tuổi
thơ ngày nào nhìn lính hiến binh Pháp đầu đội kê-pi chạy xe mô
tô có rờ mọt ở một bên. Cả khu phố đóng vội cửa khi bọn lính lê
dương rạch mặt say rượu nghiêng ngửa mang giày bốt-đờ-xô đế có
đinh dộng lộp cộp trên mặt đường. Từ cửa hàng ở phố nhìn ra, sông
Hương mang hai màu dưới mắt tôi lúc đó, xanh mát mùa hè và đục
vàng tháng mưa lụt lội. Rồi đi xa Huế lúc quá nhỏ, chẳng còn nhớ
gì nhiều. Chiến tranh đưa đẩy mang tôi về lại Huế trong vài lần
nghỉ phép từ nơi đóng quân ở đầm Cầu Hai. Những gì sót lại trong
ký ức thời đó là những chiều mưa buồn thâm thiết. Mưa thối đất,
thối đai và không kém phần thối ruột. Mấy chục năm sau, nhìn lại
sông Hương xanh trong ngày nắng, miên man trôi về những rung động
li ti xưa cũ. Dòng sông như tấm gương chao động vẽ vòng sáng lên
má lên môi loáng thoáng, hắt vào vũng mắt một hồ quang. Ánh mắt
lấp lánh thủy tinh trong suốt khung trời. Và sông trôi thật xa,
mất khuất như cánh chuồn vụt khỏi vòng tay, tôi đứng đó như cậu
bé bắt nắng trong một ngày mùa tháng sáu ở quê nhà. Có nắng trong.
Và mây trôi.
tay thập thò
cánh chuồn bay
bắt nắng
Vũ Hoàng Thư
|