Phạm Hồng Ân
Tôi dắt chị Phiến đi lòng vòng quanh phố. Hội An huyền bí dưới
bóng đêm. Ánh sáng trầm mặc hắt xuống từ những chiếc lồng đèn đỏ
rực, khiến thành phố cổ này như sống lại từ thần thoại, từ những
trang cổ tích hoang đường.
Chị Phiến chăm chú ngó từng hoa văn thanh thoát trên mỗi chiếc
lồng đèn.
- Đẹp quá! Nó được sáng tạo từ bàn tay sắc sảo của Bác Sáu,
của Luân phải không?
-
Bàn tay của Ba và em đầy những vết cắt, vết
chai...trong suốt những năm tháng đeo đuổi nó.
Chị Phiến chợt nắm lấy bàn tay tôi, sờ nắn từng ngón, rồi thở
dài :
- Nghệ thuật nào...đều cũng trả giá đắt, phải không Luân?
Tôi để bàn tay tôi nằm yên trong lòng tay chị Phiến. Hình như,
buông xuôi như vậy, tôi thấy an tâm, ấm cúng một cách thân thương
hơn. Từ trước, tôi chưa hề quen chị Phiến. Chỉ biết chị cách đây
vài hôm. Khi cô tôi chở chị về Hội An, nhân dịp giỗ Nội . Cô tôi
có nhà cho thuê ở Đà Nẵng, và chị Phiến, là một trong những người
đến trọ, suốt những tháng năm đi học.
Cũng trong dịp giỗ này, cô tôi đã quyết định :
- Thằng Luân phải lên
Đà Nẵng học, lấy bằng tú tài. Anh không thể để nó nhởn nhơ ở
đây với cái nghề đèn lồng mạt rệp này được.
Ba tôi vươn vai, đứng dậy. Ông tiến tới bàn thờ, khục khặc
ho :
- Tôi không nuôi nổi nó? Tiền học, tiền ăn, tiền nhà...hàng
tháng. Ai lo?
Cô tôi vỗ ngực, la lớn :
- Tôi lo. Tôi lo tất. Nó về quản lý nhà
trọ cho tôi. Dọn dẹp, quét sân, thâu tiền nhà...Ngoài các việc
đó, nó tự do học.
Thế là, tôi theo chị Phiến ra Đà Nẵng, tiếp tục công việc sách
đèn. Chị Phiến dắt tôi ra trường Phan Thanh Giản ghi danh. Dắt
tôi mua sách, sắm những vật dụng cần thiết trong ngày. Tôi được
quản lý nhà trọ của cô tôi. Căn nhà có tầng gác màu xanh, ngó ra
con đường đầy bóng cây cổ thụ.
Trường Phan Thanh Giản tuyệt đẹp.
Đó là một trường tư thục nổi tiếng nhất Đà Nẵng. Mùa hè, hàng phượng
trước sân rực đỏ những cánh hoa. Hoa phượng khoe hương khoe sắc
một thời gian, rồi cũng tàn phai, rơi xuống sân, nằm bẹp dưới gót
giày hay gót guốc của học trò. Chị Phiến đa cảm, thường nhìn phượng
lã chã rơi mà mang mang khóc thầm. Chị nói, mỗi cánh phượng là
hiện thân của mỗi sinh mệnh học trò. Rồi mỗi chúng ta, dù có sáng
chói hay lu mờ trong kiếp sống, sau đó cũng phải nhạt phai, lùi
vào ký ức.
Phòng chị Phiến kề cận phòng tôi, cách nhau bởi một bức
ván mong manh. Cuối tuần, học trò về quê, chỉ còn tôi và chị Phiến
ngồi ôm cô đơn trong căn nhà mênh mông. Để lấp khoảng trống này,
chị Phiến bày ra nấu ăn. Đôi lúc chị nấu cao lầu, món ăn truyền
thống của Hội An để đãi tôi. Đôi lúc, chị nấu mì quảng, ăn với
rau sống và bắp chuối xắt nhuyễn. Tô mì quảng của chị, làm mê mẩn
tâm thần tôi, từ lúc vừa ăn tô đầu tiên. Nước lèo xương hầm trong
leo lẻo, ngọt ngào đến tận bao tử. Và tô mì quảng đậm đà dân tộc
đó, đã đem chị Phiến đến gần tôi, như lá với cành.
Chị Phiến không
đẹp. Mặt lại rỗ hoa mè. Nhưng thân hình chị rất sinh động. Bộ ngực
cứ tăm tấp vung lên, mỗi ngày mỗi dâng cao. Chị như một thứ rơm
thèm lửa bén. Một thứ rơm chưa biết độ nóng của lửa, chưa biết
niềm mãnh liệt tột cùng của sự cháy, của trận hỏa hoạn đời người.
Rồi, chuyện gì đến cũng sẽ phải đến. Và nó đến vào một đêm mưa
lạnh lẽo, giữa thinh không mông mênh, chỉ có tôi và chị.
- Luân ơi!
Chị lạnh quá! Chắc bị cảm rồi...
Tôi tung mền chạy qua. Căn phòng tối tăm và vắng ngắt như cỗ
quan tài. Chị Phiến trùm mền, rên hừ hự trong đó.
- Chị uống thuốc
chưa? Lấy thuốc cho chị nha?
-
Uống rồi. Vẫn không bớt. Luân ơi!
Lại đây, cạo gió giùm tôi đi!
Đèn ngủ bật sáng. Vạt áo kéo ngược lên bả vai. Chiếc coọc -
xê mở tung. Hai mảnh vải máng hờ hững lên hai núm vú nhọn lểu.
Tấm thân kiều diễm, mềm mại của chị Phiến phô ra trước ánh đèn.
Tôi ngơ ngác nhìn quanh gian phòng. Rồi hoài nghi, đinh ninh đó
chỉ là giấc mộng. Nhưng ý nghĩ vừa lóe lên, chợt đã bị bàn tay
ma lực của chị Phiến lôi tôi ngã nhoài. Thế là chúng tôi loay hoay,
giằng co, níu kéo nhau trong niềm hoan lạc tột cùng nhất của thân
xác.
Nếu không có người con gái thứ hai xuất hiện, chẳng biết cuộc
tình phiêu lưu của tôi và chị Phiến sẽ trôi giạt đến đâu? Người
con gái này xuất hiện vào một chiều cuối tuần, khi chị Phiến từ
Tam Kỳ lên, sau những ngày về quê nghỉ lễ. Từ xa, dưới bóng mát
của hàng cổ thụ trầm mặc, tôi thấy cô bé lẽo đẽo theo chân chị
Phiến, dè dặt bước lên sân nhà. Chị Phiến đã vào trong, đặt túi
xách lỉnh kỉnh xuống ghế, trong lúc cô bé vẫn ngơ ngác ngoài cửa,
lúng ta lúng túng một cách thẹn thùng.
- Cháu tôi đó. Kêu bằng Dì.
Nó tên Phù Điêu, cùng học Phan Thanh Giản với mình. Lớp đệ ngũ.
Tôi nở nụ cười thật tươi chào cô bé. Cố tình xóa đi dấu vết
ngại ngùng của người khách lạ dễ thương.
- Tự nhiên đi Phù Điêu. Tôi
cũng trọ học, quê Hội An.
Phù Điêu lúng lắng mái tóc dài. Những sợi tóc như những sợi
tơ trời, lõa xõa lòa xòa trước vầng trán thanh tú.
- Con bé muốn nhờ
tôi kèm Toán. Nhưng tôi thấy Luân giỏi Toán nhất lớp. Định nhờ
Luân giúp cháu đấy!
Tôi xoa xoa hai tay vào nhau, gật gù:
- Sẵn sàng. Chỉ sợ Phù Điêu
kén thầy thôi!
Đôi má Phù Điêu chợt ửng đỏ. Càng bẽn lẽn, ánh mắt nàng càng
long lanh một cách não nùng. Chị Phiến đưa cho tôi một trái quít
to:
- Con bé mồ côi cha, từ nhỏ. Sau này, có Dượng, cũng như không.
Ông ta chỉ muốn Phù Điêu thôi học, kiếm tiền đem về gia đình.
Tôi chợt nghĩ đến ba tôi. Những năm tháng lao lung, tận tụy
với nghề lồng đèn, để mong nuôi bầy con ấm no một cách yên bình.
Tội nghiệp, Phù Điêu mất Ba. Cô bé đã mất đi một tình thương bao
la, không tình thương nào có thể bù đắp được.
Thời gian lặng lẽ
trôi qua. Phù Điêu và tôi, càng ngày càng gắn bó như hình với bóng.
Cứ mỗi cuối tuần, lúc có chị Phiến, tôi đóng trọn vai một người
thầy đàng hoàng, hướng dẫn cô học trò ngoan ngoãn những bài toán
hóc búa trong chương trình đệ nhất cấp trung học. Khi chị Phiến
về quê, tôi đèo Phù Điêu trên chiếc xe đạp cà tàng, rong chơi khắp
nơi. Có lần, hai đứa chạy một mạch đến Ngũ Hành Sơn, tìm một chỗ
vắng vẻ nào đó, ngồi bên nhau, nhìn mây trôi lơ lửng trên các cụm
núi huyền bí. Hoặc chở nhau ra bờ sông Hàn, ngó các chuyến tàu
tấp nập trôi ngang, mà tưởng tượng đến cảnh chia ly đau lòng của
những cuộc tình thơ mộng. Cho tới một hôm, chị Phiến trở về bất
chợt, tình cờ bắt gặp tôi ôm hôn Phù Điêu trong góc gác vắng vẻ.
Chị Phiến đùng đùng nổi giận. Chị hùng hục kéo Phù Điêu ra khỏi
vòng tay tôi, rồi sòng sọc nhìn tôi như kẻ tử thù.
- Tôi lạy Luân.
Tôi xá Luân. Phù Điêu còn nhỏ. Kính mong đại ca tha giùm con
bé.
Tôi luống cuống. Tôi hoang mang trước cơn giận dữ của chị Phiến.
Nhưng giây lát, trái tim đã tự nhiên trả lời chị – bằng lý lẽ riêng
của nó.
- Phù Điêu 15. Tôi 18. Chúng tôi thương nhau, nào có chi lạ
đâu? Rất bình thường, chị Phiến ạ!
Chị Phiến bỗng nghiến răng trèo trẹo. Giọng nói đứt quãng.
Hơi thở dồn dập.
- Bình thường hả? Đồ...khốn...nạn...
Phù Điêu buồn bã bỏ về. Chỉ còn tôi và chị Phiến ngồi ôm trống
vắng trong căn gác mênh mông bóng tối. Lúc lâu, tôi nghe tiếng
chị Phiến khóc. Tiếng khóc rất âm thầm, nhưng trong thinh không
tĩnh lặng, nó vang dội một cách bi thương, tức tưởi. Tôi chạnh
lòng, tiến đến, đặt bàn tay lên vai chị.
- Xin lỗi. Chị hãy bao dung
và tha thứ cho tôi.
Chị Phiến chợt cầm lấy tay tôi, sờ nắn từng ngón, rồi nhẹ nhàng
đưa thẳng lên môi chị, hôn một cách ngon lành. Lúc này, tôi không
còn cảm giác như ban đầu, không còn cảm thấy ấm cúng, thân thương
như ngày xưa nữa. Tôi đành thở dài, đẩy chị Phiến ngã vào thành
ghế.
- Luân ác lắm! Luân định xem tôi như kẻ qua đường ư?
-
Không, chúng
mình vẫn là bạn. Bạn thân với nhau. Dễ chi phôi pha được chị?
-
Bạn
ư? Còn trinh tiết? Còn tình yêu đầu đời tôi dành trọn cho Luân
thì sao? Phôi pha chăng?
Tôi ngó ra con phố. Con phố sâu thăm thẳm. Thăm thẳm như đôi
mắt đầy tuyệt vọng của chị Phiến. Tôi biết nói sao với chị Phiến
bây giờ? Tôi phải giải thích thế nào về tình yêu của tôi? Và về
sự mất mát quá đau thương của chị?
Dần dà, tôi cũng lên đại học.
Trong lúc chị Phiến thi rớt, khóc đến sưng vù đôi mắt. Chị Phiến
đau khổ vì đường công danh trắc trở, lại ôm thêm nỗi thất tình
ngao ngán, đành bỏ về quê biệt tông biệt tích. Tôi dò dẫm bước
chân trên ngưỡng cửa đại học một cách chán chường. Gia tài cô tôi
đã khánh kiệt, chỉ còn lại mảnh đất vụn nát, rẻ rúng, trôi nổi
theo thời gian. Và nghề lồng đèn của ba tôi cũng lùi vào quá khứ.
Nét văn hóa cổ truyền của dân tộc bị ngã quỵ, trước sức tấn công
ồ ạt của nền văn minh hiện đại, đang ngày đêm đổ ập vào phố cổ
Hội An. Tôi đành đi lính. Tìm công hầu khanh tướng trên các bãi
chiến trường.
Đêm cuối, trước ngày lên đường nhập ngũ, Phù Điêu
ngồi suốt đêm bên tôi, trên căn gác cô tôi. Đêm đó, tôi hôn cô
bé như mưa bấc. Và những nụ hôn nồng nàn đã làm cô bé cảm động,
long lanh ngấn lệ. Cuối cùng, không ngăn nổi sức mãnh liệt của
tình yêu cuồng dại, tôi đẩy Phù Điêu té ngửa xuống nền giường.
Khi hàng cúc áo mở tung. Tấm vải cuối cùng sắp tuột khỏi thân xác
ngà ngọc. Bỗng cô bé bật dậy, kéo nhanh chiếc mền quấn chặt vòng
ngực.
- Anh tiến tới bước nữa. Em sẽ cắn lưỡi chết ngay đây.
Tôi sững sờ, kinh ngạc trước phản xạ kỳ lạ của Phù Điêu.
- Sao? Sao
em phải cắn lưỡi? Bộ em không thật sự yêu anh?
-
Yêu. Đâu phải như
vậy?
Phù Điêu lạnh nhạt bỏ xuống cầu thang. Nàng ngồi bệt xuống
sàn, âm thầm ngó ra hàng cổ thụ mịt mùng. Tôi loay hoay chạy theo,
tha thiết nói với nàng lời xin lỗi thống thiết nhất. Chẳng bao
lâu, Phù Điêu cười tỏn tẽn :
- Anh ơi! Trong đời em, chỉ có mình anh
thôi! Và em hứa, em sẽ yêu anh đến suốt đời, suốt kiếp...Anh
có bằng lòng không?
Chiến trường điên đảo. Mặt trận sôi đọng. Bạn bè mỗi lúc một
vơi đi. Khiến mộng công hầu khanh tướng của tôi như viên đạn bay
vèo. Mặc dù trấn đóng ở tiền tuyến xa xôi, tôi vẫn nhận được những
cánh thư dễ thương của Phù Điêu đều đều. Thư nào cô bé cũng viết
dài sòng sọc. Đọc xong, tôi cảm thấy cõi lòng dường ấm lại, như
có ai nhen bếp lửa đầu tiên trong mùa đông lạnh lẽo vô cùng.
Rồi,
ngày trở về, nghỉ phép thường niên. Má tôi bắt tôi phải lấy vợ.
Má muốn tôi có mái ấm gia đình. Muốn có người san sẻ cùng Má những
lo toan, những thương nhớ về tôi, như một đồng hành tri ngộ. Tôi
lật đật tìm Phù Điêu, nói cho nàng biết niềm hân hoan tuyệt đỉnh
đó.
- Phù Điêu ơi! Anh báo cho em tin mừng. Kỳ này, Ba Má anh sẽ
mang trầu cau qua đây, cưới em cho anh đấy!
Phù Điêu đang vui, chợt ủ mặt xuống.
- Không bao giờ em nhận lời
lấy anh đâu! Không bao giờ có ngày đó!
Tôi kinh ngạc, sửng sốt trước câu nói quá bất ngờ và vô cùng
kỳ lạ của Phù Điêu. Câu nói như con dao, cứa trái tim tôi vỡ tung
trăm mảnh.
- Ồ, Sao em nói vậy? Hay em có gã đàn ông nào khác?
Phù Điêu chạy như bay ra sân cỏ. Nàng ngồi phịch xuống bờ ao,
ngắt từng bông hoa dại, ném phăng xuống dòng nước. Tôi lúp xúp
theo nàng, trần tình, và nói những lời đau khổ nhất của một kẻ
bị phụ tình. Chẳng bao lâu, Phù Điêu lại tỏn tẽn cười.
- Trái tim
em duy nhất chỉ có bóng hình anh. Anh là thành trì, là bóng mát...để
em suốt đời trú ẩn một cách an toàn.
-
Vậy sao em từ chối hôn nhân?
Từ chối xây dựng hạnh phúc?
Phù Điêu bỗng ôm mặt, khóc nức nở :
- Hôn nhân? Hạnh Phúc? Em không
thích những thứ đó...
Tôi không thể đợi Phù Điêu suốt đời suốt kiếp, như nàng hứa
sẽ yêu tôi suốt kiếp suốt đời. Má tôi đã cưới vợ cho tôi, một cô
bé làm lồng đèn, cùng quê Hội An. Vợ tôi vừa xinh đẹp, vừa siêng
năng tận tụy với nghề. Nàng có thể nối nghiệp Ba tôi, chia xẻ từng
giọt mồ hôi, từng giọt nước mắt với gia đình. Tuy vậy, bóng dáng
Phù Điêu vẫn hiển linh trong trái tim tôi một cách rộng lớn. Nàng
mãi mãi là dấu hỏi kỳ lạ, nhưng đầy yêu thương, làm chao động đời
tôi đến giây phút cuối cùng.
Bếp lửa, rồi có lúc sẽ trở thành tro
than. Binh đao cũng vậy. Nó sẽ tàn cuộc, tàn trận. Mấy năm tìm
công hầu khanh tướng trên các bãi chiến trường. Tôi chỉ tìm được
chính mình, sau khi đã mất đi tất cả. Tôi tìm được chính mình qua
hình ảnh tù binh, qua số phận kẻ bại trận trong các trại lao động
dã man nhất thế kỷ. Rồi, tôi trở về. Trở về như đi lùi lại quá
khứ. Mở toang các cánh cửa kỷ niệm. Thăm dò những dấu vết thân
yêu.
Tôi trở về. Phù Điêu vẫn vậy. Nàng vẫn cô đơn, lặng lẽ đứng
bên lề thế nhân, ngó thời cuộc thăng trầm. Mười năm đằng đẵng xa
nhau, gặp lại, nàng cũng ngoan ngoãn ngả đầu vào vòng tay tôi,
sẵn sàng đón nhận những nụ hôn ngọt ngào. Đêm đó, hai đứa lại thức
trắng, trong ngôi nhà của Mẹ nàng, ở ngoại ô Đà Nẵng. Đêm đó, chỉ
có Phù Điêu và tôi, hai đứa ngồi nhìn bóng mình lăn nhau trên vách.
Bà Mẹ vừa về quê, tuần trước. Ông Dượng thì bỏ đi mất dạng, từ
lúc cộng sản chiếm đóng thành phố này. Đêm đó, đối diện với Phù
Điêu, tôi chợt buồn vô hạn. Tôi rót rượu uống liên tu. Cạn ly này
đến ly khác. Uống đến lúc Phù Điêu bực dọc, ném chai rượu vào góc
nhà. Mất rượu, tôi lại cà kê than thân trách phận. Tôi tả oán đến
nỗi Phù Điêu khóc sướt mướt, hai tay nàng ôm đầu quằn quại một
cách xót xa. Rồi, dục vọng lại dâng lên, khiến tôi nhào tới, ôm
Phù Điêu quăng lên chiếc giường.
- Anh...anh yêu em. Suốt kiếp yêu
em. Hãy cho anh kỷ niệm. Một kỷ niệm để đời...
Thình lình, Phù Điêu bật dậy. Nàng lồm cồm đứng lên, nhìn tôi
giận dữ.
- Anh muốn em cắn lưỡi chết cho anh vừa lòng phải không?
Muốn không?
Tôi đau khổ, quỵ xuống bên nàng.
- Anh xin lỗi. Bởi yêu em quá, nên...không chủ động được...
Phù Điêu cứng rắn.
- Hãy trở về với vợ con anh đi! Hạnh phúc đang
chờ anh đấy!
-
Còn em? Em không yêu anh sao?
-
Yêu anh, em mới mong anh được hạnh
phúc. Yêu anh, em mới vò võ cô đơn đến ngày hôm nay. Anh hiểu
không?
Tôi đưa hai tay lên trời, tức tối, rồi la toáng lên :
- Trời ơi!
Em có điên không Phù Điêu? Tại sao em kỳ lạ và bí ẩn như thế?
Tự dưng, tôi muốn bỏ đi. Muốn không còn thấy bóng dáng Phù
Điêu nữa. Muốn bôi xóa một cuộc tình, có tông tích mịt mù như sương
khói. Cuối cùng, tôi cắm đầu cắm cổ chạy hụt hơi ra phố. Và lang
thang suốt đêm...giống một tên điên.
Sau năm tháng lưu đày ở rừng
sâu, dường như Thượng Đế đãi bôi tôi, bằng cách đưa gia đình tôi
định cư ở Mỹ. Ra đi, tôi chấp nhận tất cả. Chấp nhận mất mát, đau
thương. Kể cả tình yêu kỳ lạ và bí ẩn của Phù Điêu. Tình yêu đó,
nếu không hư vong, cũng chỉ là cái vòng luẩn quẩn, quanh co, một
cách hão huyền.
Gần mười lăm năm nơi xứ người, tôi lầm lũi bôi xóa tông tích kỷ
niệm. Bóng dáng Phù Điêu vừa phai nhạt trong tôi, thì bỗng một
hôm, có tiếng điện thoại từ Việt Nam vang lên, đưa tôi trở lại
quá khứ chập chùng.
- A lô, tôi báo cho Luân một tin buồn. Phù Điêu
đang trong cơn bạo bệnh. Bác sĩ cho biết, trong nay mai, nó sẽ
giã từ cõi đời. Nếu có lòng, xin Luân hãy về thăm nó lần cuối.
Nó vẫn cô đơn. Và nhắc Luân hàng giờ...
-
Hả? Chị Phiến đó ư? Chị
nói sao? Chị....
Tôi chưa kịp hỏi thăm chị Phiến, hỏi thăm Phù Điêu. Chưa kịp
thắc mắc về số điện thoại của tôi, sao chị biết được? Thì ở đầu
dây bên kia, chị Phiến đã cúp máy rồi.
Tôi rơi bịch xuống sofa.
Trái tim chợt quặn đau, nhoi nhói trong lồng ngực. Phù Điêu – cho
tới bây giờ – vẫn cô đơn, vẫn nhắc đến tôi hàng giờ ư? Nàng cô
đơn để chờ ai? Đợi ai? Trong khi nàng khăng khăng cự tuyệt lời
cầu hôn chân thành, tôi đã dành riêng cho nàng.
Tôi trở lại Việt
Nam đúng ngay ngày thi hài Phù Điêu vùi sâu trong lòng đất. Lần
cuối, tôi đã không kịp nhìn mặt nàng. Thà như vậy, cũng được. Hãy
để tôi thả hồn về quá khứ, tưởng tượng một khuôn mặt học trò dịu
hiền và dễ thương biết bao. Hãy để tôi âm thầm mặc niệm cuộc tình,
thứ cuộc tình trong sáng như kim cương, nhưng cũng bí ẩn và kỳ
lạ như núi thẳm rừng sâu.
Chị Phiến lặng lẽ trao tận tay tôi quyển
nhật ký dày cộm của Phù Điêu, rồi âm thầm rút lui. Tôi ngã bật
xuống gờ cỏ, run run lật từng trang, đọc ngấu nghiến một cách đau
lòng. Trời ơi! toàn bộ nhật ký, suốt cuộc đời của Phù Điêu, chỉ
viết về tôi. Rồi, một trang nhật ký nhòe nhẹt nước mắt đã đập vào
trí tôi, giải mã điều bí ẩn và kỳ lạ về nàng mà tôi đã từng thắc
mắc, trách móc.
“...Luân yêu, em đã hứa sẽ yêu anh suốt đời suốt kiếp kia
mà. Anh hãy tin ở em đi! Nếu không lấy được anh, em thề sẽ ở
vậy, cô đơn trọn đời, cho đến khi trở về cát bụi. Anh ơi, em
từ chối lời cầu hôn ngọt ngào của anh mà đau xót lắm. Anh biết
không? Năm 14 tuổi, em đã bị người Dượng ghẻ thô bạo cưỡng hiếp,
cướp đoạt trinh tiết mất rồi. Anh ơi, em đã không đẹp, lại không
giàu, thì chỉ còn lòng trinh bạch đầu đời để dâng tặng cho chồng
mình chứ! Thế mà, em mất tất cả. Làm sao em có thể xứng đáng
làm một người vợ hiền của anh được???....”
Trang nhật ký
đã nhòe nhẹt nước mắt của Phù Điêu, giờ đây lại đẫm thêm những
giọt nước mắt muộn màng của tôi. Ôi, những giọt nước mắt chồng
lên nhau, em có thấu hiểu cho anh không, hỡi Phù Điêu!!!
PHẠM HỒNG ÂN
(San Diego, 05/09/2008)
|