SỐ 40 - THÁNG 10 NĂM 2008

 

Thơ

Lầm
24Vũ Hoàng Thư
Qua công viên
24Di Trương
Đêm Mỹ Tho
21Phạm Hồng Ân
Gió về
18
Trần Việt Bắc
Bắc lưu
18Tử Hà
Bến yêu
18Huỳnh Kim Khanh
Thu
21
DTM - PTP - VHT
Thơ tri kỷ
21Ái Ưu Du
Khi tôi chết
21Hoàng Mai Phi
Đêm trăng tây bắc
24Đỗ Phong Châu
Hoa cỏ
24Tôn Thất Phú Sĩ
Trăng và tôi
21Kim Thành
Time stands still when I look into your eyes
18
Niles Vo
El Sol y La Luna
18Tiểu Châu
Em đến thăm một chiều mong manh
18Vinh Hồ
Oruga Hyakunin Isshu số 2
21
DTM - PTP - VHT
Thơ phiếm bầu cử Hoa Kỳ
21Tú Trinh


Truyện ngắn, Tâm bút, Tản mạn

Mùa thu và Paris
14
Xuân Phương
Căn nhà sau cửa biển
14Phan Thái Yên
Người tù điên
14Phạm Hồng Ân
Đoàn tụ
14Phan Ngọc Danh
Ban Mê và nỗi nhớ
13
Đỗ Trường
Vọng biển
14
Nguyễn Nhật Cường
Con búp bê tật nguyền
8Cỏ Biển
Nơi chỉ xài bạc cắc
8Tầm Xuân
Mái tóc của Huế xưa
8Trần Hoài Thư
Gió chướng
8Song Thao
Không gian ảo
8Tiểu Đỉnh
Chiếc áo gấm
8Ái Ưu Du
Trách nhiệm và luật pháp
8Đỗ Trường
Trở về
8Đỗ Phong Châu

Văn học, Biên khảo, Dịch thuật

Những biến cố liên quan đến sử Việt
1Trần Việt Bắc
Sống thiện chết lành - Kỳ 13
4Ngô Văn Xuân
Những lời tiên tri về tận thế
4Vinh Hồ

Nguyễn Du trong thi ca Việt Nam - Kỳ 27
3Hoàng Thiếu Khanh

Truyện dài

Giữa hai lằn đạn (19,20,21)
1Ái Ưu Du
Tân liêu trai - Người đàn bà Dốc Tuyết (2)
1
Hải Yên
Thằng Nèm
1Trần Phú Mỹ
Vô tình cốc - Hồi kết

1Huỳnh Kim Khanh


 

Giữa hai lằn đạn

 

Chương   19

TÌNH ĐỒNG ĐỘI GIỮA  KHUYA  MUÔN  TRÙNG

Hoài ôm túi xách vải ra phía sau hậu trường thì gặp Trúc, Trọng và Đan. Sự có mặt bất ngờ của Đan, dần tan biến nỗi u hoài trên sóng mắt nàng, như rạng đông làm tan biến chân trời đêm.
Trong thánh thất tâm hồn hoang dại, Hoài vui mừng chào đón anh, bằng đuôi mắt nheo một đường dài thật lẵng, đẩy đưa nụ cười duyên mời gọi thân tình, làm xinh thêm khuôn mặt:

- Ô! Em không ngờ... gặp anh ở đây.
- Biết các em lên đây từ sáng. Anh cứ đi tìm... mà không thấy đâu.

Nhanh nhẹn láu táu ngắt lời Đan, bàn tay trái Trúc nắm chặt, có ngón tay trỏ giơ lên, xỉ xỉ về phía Hoài, cô xí xọn cười cười:

- Hoài trốn, khi khám phá ra ngọn suối Thần ở bản doanh nè.
- Còn em hi hi... có hẹn.

Trúc nói và cười tít mắt. Cô đi xuống mấy bậc thang gỗ, phía sau sân khấu, và đến câu lạc bộ với Trọng. Hoài ngồi lại trên góc cầu thang gỗ, choáng lối đi lên đi xuống.

Đan đứng kề bên, một chân anh gác lên bậc tam cấp, đôi giày botte de saut mờ bụi đỏÁo quần treillis mầu xanh của lính phong sương, bỏ trong thùng nai nịt cẩn thận. Một tay anh ôm nón sắt, một tay chống lên sườn. Miệng anh phì phà điếu thuốc lá không đầu lọc. Ngoài ra, anh không mang huy hiệu cấp bậc gì.

Nhìn nhau giây lát, biểu lộ niềm khát vọng kỳ phùng, đơn sơ chân thật. Hoài mỉm cười, nheo nheo mắt ướt trêu ghẹo:

- Anh ở đây, coi chừng chết hết mấy đóa hoa rừng à nhaĐừng có léng phéng. Thần Núi, Thần Hồ, sẽ không buông tha anh đâu.
- Em muốn hỏi anh điều gì nào? Anh nghe mấy bạn nói: Em xinh đẹp. Ngoan, hiền. Và, sao mà... dễ thương vậy!
- Anh có cho em đi tàu bay giấy không. Hở Đan?
- Anh tin Hoài đủ thông minh, để lĩnh hội các khía cạnh khác.

Hai tâm hồn nhạy cảm đồng điệu, gặp nhau ở tần số cảm thông, thấu hiểu, dễ trở thành đôi bạn, hầu ngỏ lời tâm sự. Sau khi biết sơ lượt về Đan. Nhìn thân phận quần thô vải cứng, giày sờn, Hoài không hơn cô bé lọ lem là mấy. Ngạc nhiên ngẩng nhìn anh, giọng nói Hoài pha chút buồn rầu:

- Không ngờ anh là con nhà giàu có, ở Huế.
- Con của nhà giàu, chứ có phải tự anh giàu đâu.
- Lại không ngờ... anh là... sĩ quan thế nầy.
- Vậy, em ngỡ anh, là gì nào!
- Bởi vì, em thích người lính trẻ bình thường, có đôi mắt u sầu, đã lội qua sông Nghĩa Phú ngày nọ. Trên cầu vai không đính cánh mai vàng, mai bạc nào.
- Đó là những danh xưng phù du...
- Em thích bình dị, khi nói chuyện với anh.
- Anh nói chuyện với em đây, không được bình dị sao?
- Em là lính mới tò te. Còn anh là sĩ quan đã từng trải. Con nhà giàu, lại ở Pháp mới về.
- Sĩ quan hay lính mới, dính dấp gì đến chuyện chúng mình quen nhau nào? Có quen biết nhau lâu ngày, em sẽ hiểu.

Anh không thiết tha, trọng vọng điều đó. Một lần nữa, anh mời em, vào Câu Lạc Bộ gần đây. Ở đó, em có thể biết ít nhiều, về môi trường các anh đang sống.

Hoài rảo bước bên anh bạn tình cờ, dẫn đến cho mình niềm vui lâng lâng thú vị. Hoài cố tránh trong lòng mọi huyễn tượng, như muốn bừng lên, theo ánh mắt ngời sáng của chàng trai phong sương, văn nhã nầy. Một tình bạn dù chưa ủ đúng độ nồng, như hũ rượu quý chôn bách niên. Nhưng đủ ấm áp nồng say, đủ đánh bóng tình tri kỷ nơi biên cương ngàn dặm quan hà.

Câu Lạc Bộ vừa đủ rộng, các bàn hầu như kín chỗ. Đan dẫn Hoài vào ngồi bên các bạn anh thân quen. Mấy cô nữ quân nhân lạ, liếc mắt trề môi, nét mặt hầm hầm, xù ra. Họ vùng vằng miễn cưỡng kéo chiếc ghế rột rột né dịch xa xa, dời đi chỗ khác. Mấy cô quân nhân Huyền Nữ, Thúy, Vân, Liên, nhìn bọn gái xướng ca với đôi mắt vô loại thị dân, miệt đời khinh dể.

Hoài không hiểu, trong hoàn cảnh hiện tại giống nhau: Cùng một lý tưởng, hoài bão, môi trường chung, quan điểm chung và lập trường cùng ý chí đó. Ta có khác gì nhau đâu, mà "hách xì xằng" quá vậy? Chưa chắc ai có tư cách, đạo đức, tế nhị, khôn ngoan, thấu hiểu. Ai hơn thua ai. Đừng vì cái lon mới cũ to nhỏ, mà nhìn đời bằng nửa con mắt! Bạn à!

Ngồi bên trưởng phòng 5, là anh Phước, bạn đồng môn của Đan, Đan gọi thêm ít món ăn nhẹ hợp khẩu vị, rồi nói với các bạn:

- Ưu Thiên đã nói câu nầy: “Ái ưu, cũng có khi nhàn. Thì tiêu khiển trong tiệc rượu, cung đàn, coi cũng nhã". Có phải không các cậu? Hôm nay, tôi hân hạnh mời cô cậu ngồi chung bàn ở đây, một phen. Gọi là có chút tình tri kỷ bạn bè. Các bạn đồng ý chứ!
- Có điên, mới không đồng ý.
- Gọi chị Sa tính tiền ghi sổ. Dứt điểm chỗ nầy cái đã.
- Ơ! Anh Đan mời bạn bên bàn đó. Chứ chúng tôi ngồi bên bàn nầy. Không phải là bạn của các anh sao? Nhất là có người đẹp Huyền Nữ, thân thương của ta đây nè.
- Phải quá đi chứ.
- Ây. Các anh chị ơi! Chúng mình tự động kéo cái bàn nầy, nhập chung với bàn bển đi. Bển “dzui góa” mà hổng nhập bọn. Thì... cù lần ơi là cù lần. Há.
- Mau lên, kẻo anh Đan đổi ý.
Thì buồn năm phút.
- Hay quá. Nam vô tửu, như kỳ vô phong mà!
- Tửu nhập tâm, như hổ nhập lâm.
- Tửu nhập tâm, xuất khẩu thành thơ mà.
- Tửu nhập tâm, cữu cuồng tạ thị.

Họ tự nhiên ăn uống, nói cười vui vẻ. Như chưa từng có chuyện bĩu môi, kéo mấy cái ghế sột soạt nhích ra chỗ khác. Hoài mắc cười thiệt. Nàng nhìn Đan e dè hỏi:

- Ở đây không bị cấm uống rượu à! Anh?
- Không hạn chế, nhưng họ tự biết mình phải thế nào. Khí phách nam nhi, không cho phép "tửu nhập tâm, như cữu cuồng tạ thị". Em đừng lo! Trong hương hoa đôi khi cũng có chất làm cho mình say hơn rượu, đó em. Vài ly bia, thì đã sao!

Thế là, các cô và quý anh bạn, tự nhiên vui đùa bên nhau. Đan quay qua liếc thấy Hoài e dè, coi bộ có vẽ “nể hay ớn” mấy cô lạ, Đan trìu mến mỉm cười. Giọng nói anh thì thầm bên tai, có ý thức sâu sắc, về nỗi khổ tâm của nàng:

- Theo anh nghĩ: Vì lý do đặc biệt nào đó, em phải lặn lội với cuộc sống, một cách miễn cưỡng. Lứa tuổi nầy, nhẽ ra, em là chim én, nếu không là con sáo lém lỉnh ha.
- Cám ơn anh. Ít ra, có anh nghĩ... đôi chút về em.
- Tình yêu và đời sống. Hai từ nầy dù khác biệt, nhưng ràng buộc mật thiết với nhau. Em à. Không nên thất vọng, có hy vọng mới nuôi sống mình, trên đường đời buồn ít hơn vui. Đó, Hoài thấy không? Anh lạc quan chứ! Anh muốn gửi đến em lời chúc thế nầy nhé: Dù trong thách đố, trở ngại nào. Em nhớ bình tĩnh, sáng suốt, có nghị lực để vượt qua. Anh ở phương nầy, sẽ cầu nguyện cho em mãi.
- Em không nói cảm ơn anh. Có lẽ khách sáo và dư thừa.

Hoài cúi đầu, nụ cười mỉm chi nở trên bờ môi vụng dại, khi Đan trìu mến trao cho nàng, đôi mắt mùa thu êm đềm.
Tất cả rời khỏi Câu Lạc Bộ, khi kèn vang vọng báo hiệu nửa đêm. Trăng lá mít mảnh dẻ, nhẹ nhàng trôi giữa muôn cuộn mây xám đục. Như con thuyền bồng bềnh, nhấp nhô trong tảng băng nứt nẻ. Trên không trung ướt át sa mù buông lã. Mưa rừng ngày hôm trước ào ạt đổ xuống khu trường sơn rậm rạp, cây lá được thiên nhiên kỳ cọ rửa sạch trơn, đã bóng mướt dưới ánh trăng lung linh. Tiết trời mùa thu miền núi buốt giá, sương muối rơi lộp độp trên ngọn lá ướt sũng ánh trăng. Ai nấy đều bị nứt môi, lạnh nổi da gà, run lập cập, xuýt xoa chà đôi bàn tay vào nhau.
Đan cầm những khúc bánh mì kẹp thịt, mấy bi đông nước trà nóng, anh đi một vòng thị sát đến từng điểm gác di động kép. Cứ hai người đi lui đi tới gác chung ở một phần tư khu doanh trại. Thành ra góc nào cũng có lính bồng súng gác đêm. Đan đưa quà tận tay mấy chú lính.

Thật vô cùng khổ cho người lính cơ cực. Ngày đi xuyên rừng lội suối, leo đồi, vượt núi. Đêm đêm họ phải chia nhau ra canh gác cẩn mật, ít nhất là ba giờ. Cơm không kịp ăn, không có nước uống. Ngủ không tròn giấc. Khỏi nhìn đồng hồ, họ chỉ nhìn trăng lên, trăng lặn, nhìn sao hôm, sao bắc đẩu, sao băng, sao mai. Từng giờ. Từng đêm, họ khều nhau đổi phiên gác canh thâu.

Dẫu vậy, họ hân hoan, vui vẻ với niềm hãnh diện được làm anh lính Cộng Hòa Việt Nam. Thân thể rạo rực dưới sức lôi cuốn tình đồng đội an hòa. Nhịp bước họ nhún nhảy, coi vô tư tươi trẻ hồn nhiên như cái resort, dù ba lô trĩu nặng hành trang và đầy bụi đỏ dặm trường.

Mỗi đêm Đan đến với họ, trong lúc người lính cô đơn ôm súng gác, giữa khuya muôn trùng lạnh lẽo. Anh ân cần sẻ chia chút tình người. Không phải họ quý mến anh vì khúc bánh mì, ca nước nóng. Mà, do phát xuất tận đáy lòng họ sự kính yêu anh từ tâm và độ lượng. Do anh chí tình thương cảm và xích lại thân thiết với thuộc quyền, không phân biệt giai cấp. Tạo cho nhau niềm cảm thông sâu sắc, thấu hiểu, gần gũi nhau hơn. Gắn bó. Chia sẻ. Ủi an và thắt chặt tình đồng đội.

Giữa Khuya Muôn Trùng

U hoài  sóng mắt   dần tan biến
Mừng vui chào đón  đuôi mắt nheo
Cười đưa  duyên thắm, dài thật lẵng
Tâm hồn  hoang dại, buổi  rạng đông

Gác botte de saut mờ bụi đỏ
Khát vọng kỳ phùng  mắt ướt nheo
Tâm hồn nhạy cảm thành đôi bạn
Pha chút buồn rầu  bé lọ lem

Tình cờ rảo bước bên anh bạn
Tri kỷ  biên cương  dặm quan hà.
Liếc mắt trề môi  đời khinh miệt
Thị dân vô loại  chỉ mấy cô     

Không trung ướt át mù buông lã.
Tươi trẻ hồn nhiên nặng hành trang             
An cần trìu mến  tình  chia sẻ   
Vụng dại bờ môi mỉm chi cười

VRaud

 Chương   20

CHÂN PHƯƠNG

Đeo gùi lên vai, tay cầm xà gạt, lưỡi bén ngọt, làm gậy tốt, vừa là vũ khí hộ thân. Ở đây, người Thượng vào rừng sâu lấy mật ong, bẻ măng tàu, măng núi, nấm, rau núi, hái hoa lan, cây quả. Họ chặt nứa, giang, mây và củi, là chuyện nhỏ. Họ tập trung thành một đoàn theo hàng dọc, bước đi chậm rãi, gùi mấy thứ kiếm được, họ xuống phố bán lấy tiền, đôi khi đổi gà vịt lấy chó. Trên môi họ ngậm điếu đóm, cần tẩu cong cong lả lơi như dấu ngã. Họ chuyền cho nhau từng hơi thuốc vặt. Tu rượu cần như điên. Họ mím miệng nhổ bãi nước bọt văng ra xa gọn gàng, hay ho chưa từng thấy.
Sáu phụ nữ sơn cước gốc Cơ Tu, Xơ Đăng, Giẻ Triêng, Hrê, Kho, Mạ, quấn xà rông đủ màu, họ xuống thung lũng lấy nước theo hàng dọc. Đầu họ đội trái bầu khô rỗng ruột, lưng gùi nặng. Tay chống trên chiếc gậy tre, cổ họ luôn đeo đầy dây cườm đủ màu sắc. Nàng phà ca đeo chiếc vòng gỗ sơn trắng ở hai trái tai to, căng mỏng dính to hơn cườm tay. Họ ăn mừng lớn khi trái tai tự động đứt ra. Hoài thấy mà sợ hết hồn.

Họ ở trần, cặp vú no tròn, căng cứng. Một số phụ nữ miền núi, (theo từng bộ tộc và có quan niệm khác nhau), rất coi trọng cặp vú, không cho ai đụng tới. Có một số ít họ không quan trọng cái phần kín của “phà ca ở dưới” kia. Nghĩa là “người yêu” có thể chỉ sờ mó chỗ đó, (sờ mó thôi nha). Nhưng không được sờ mó cặp vú. Chưa phải là chồng, mà sờ mó ngực họ, coi chừng ta bị phạt đền trâu, đền bò. Họ nói:

- Ông Trời sinh ra cho tui có cặp vú nầy, là của Trời ban, để nuôi sống con có sữa bú mà thôi. Đó là sự sống.

Bà mẹ ở trần, cõng đứa con trước ngực. Đứa bé thò khuôn mặt đen đen ra khỏi địu, hai mắt to tròn, hàng mi dày cong vút, mũi cao, miệng ngậm chặt đầu vú mẹ, kéo xệ xuống. Dân tộc miền núi xưa sống ở tại miền Nam Việt Nam bị người Kinh cũ “miệt thị” gọi họ là “mọi”. Nay đa số người Kinh đã có phần thay đổi cách nhìn, đã thân thương gọi họ là người miền Thượng, hay là người thiểu số.

Hoài nhận xét chung chung về người Thượng nầy, tuy họ có nước da nâu đen, nhưng trai tráng cũng như phụ nữ dáng vóc vạm vỡ, khỏe mạnh. Đa số họ đều có khuôn mặt dễ nhìn: Mũi cao, mắt to hai mí, lông nheo dài rậm và cong vút. Tính nết thật thà, bình dị, đôn hậu chất phác. Đa số ít học do bị phân biệt đối xử.

Nhưng kể từ khi tổng thống Diệm lên nắm chính quyền, thì trong trường của Hoài ngày ấy, đã xuất hiện mươi  người Thượng, vào học đến lớp Đệ Nhị, Đệ Nhất. Họ học giỏi, siêng năng và chuyên cần. Những “học sinh mới” trong thế hệ trẻ nầy, không theo cổ tục cà răng căng tai. Nên các cô dù mặc xà rông coi khá ỏn ẻn duyên dáng. Các cậu thì mặc dồ tây tươm tất và lịch sự hơn.

Bà mẹ miền núi mò cua bắt ốc thoăn thoắt, bắt cà cuống thật tài tình. Mùa hè, cà cuống đẻ trứng ở bở sông, ao hồ, sông rạch. Trứng vàng bao quanh thân cây thủy sinh là là xuống mặt nước, mặc thủy triều lên xuống. Chúng sống dưới rễ cây bần, cây lúa, cây năn, cây sen, lục bình, cỏ lát. Cà cuống còn gọi là sâu quế, rận rồng. Cà cuống đực có tuyến cay nằm ở đốt ngực cuối, thân dẹp, màu nâu, vàng đất, đuôi nhọn càng nhọn, chích thật nhức. Cà cuống cái thịt chắc, béo. Ăn thịt cà cuống rất thơm ngon.

Đan, Hoài, Trọng, Trúc, ngồi bên bờ suối khu Ô Chai. Họ thấy hai cô cậu Quân, Nữ, trông bộ mặt khó coi, xù ra như lông nhím. Chắc đôi bạn nầy có vấn đề gì, to nhỏ khúc mắc gay go đây.

Mấy sơn cước kia ngây người ra, nhìn Trúc, Hoài, bằng đôi mắt nai tơ. Bỗng họ phát lên tiếng nói líu ríu một tràng dài. Không sao hiểu được. Hoài nghe họ nói mà ngu ngơ! Chẳng khác nào người câm, người mù, chơi trò ném banh vào nhau.

Đan bật cười, khi nghe mấy cô gái Thượng nói chuyện, anh trả lời họ gọn gàng không lúng túng. Tiếng Tây tiếng Mỹ, Đan giỏi đã đành. Tiếng Tàu anh nói được, tiếng Thượng anh giỏi hơn. Hoài không phục lăn anh sao! Đan quay nhìn Hoài, mỉm nụ cười tươi vui, giải thích:

- Mấy sơn nữ đó, đã nhận ra em độc vũ cho họ xem tối hôm qua. Thấy chúng mình ngồi bên nhau, họ hỏi khi nào thì em... “ốt dột” đi cưới chồng?
- Ốt dột cưới chồng... gì anh?
- À theo chế độ mẫu hệ, cô gái “mắc cỡ”, đi cưới chồng mà. Ta. .. vào Buôn Làng đi. Có Lễ Hội ở đó. Gần đây thôi.
- Lỡ họ bắt em “ốt dột cưới chồng” thì chết. Anh! Trông em đen đen khá giống họ á.

Đan cười, hai tay đan vào nhau, đặt trên đầu gối:

- Tuy vậy, họ biết trọng sự tự do. Nếu em nói không đồng ý, họ không hề ép. Em có toàn quyền quyết định. Họ chất phác, chân phương, mộc mạc, thật thà dễ tin lắm. Em à.
- Vậy, mình đến đó đi anh.

Bốn người đi ngang qua đồi trà xanh. Nhiều cô gái Thượng từ các nơi ở miền Nam trong trang phục Maya, Nahua, Hui Choles, và vài sắc tộc Mnong, Koho, Cil, vai đeo loại gùi đan thưa, trong gùi mây chất đầy bắp. Các cô hái trà nhanh thoăn thoắt như máy, vất ngược lá trà vào sau gùi gọn ơ. Họ kêu gọi nhau về buôn làng khai hội. Mùa hội lớn nhất năm, (của các sắc dân tộc miền núi họp lại).

Cạnh rừng, mây già bò leo chằng chịt, mây non ngọn cao ngọn thấp, tua tủa trồi lên cao. Những nhà sàn bằng gỗ thông, hoặc phên tre, mây, rung rinh kêu cót két, mái lợp rơm rạ, tranh, thấp lè tè. Vài căn nhà đất vách vôi cũ, loang lổ, liếp phên tre, nền đất nện chặt, trơn láng như tráng lớp dầu.

Trước phên vách, nhà nhà đều treo đầy chùm bắp, đậu, bầu khô, sừng trâu, sừng nai, xương thú, trái bầu khô. Nhà chủ tế treo cả đầu cọp, đầu nai khô, ruồi đậu đen nghịt, bên cạnh những bao quần áo Mỹ Quốc Viện Trợ. Khu xóm vây quanh một cái nhà tôn, sân lót gạch tàu độc nhất, sạch sẽ, đàng hoàng hơn, dành cho tộc trưởng. Ấy là nơi dành riêng hội họp, cúng tế và lễ hội. Gần một cái ao chung, cá đớp động dưới chân bèo. Hoa súng, hoa sen, hoa lục bình, hoa rau muống, khơi lại dòng sông dĩ vãng trong tiềm thức Hoài những buồn thương, nhớ nhung vớ vẩn, ngút ngàn trong ngăn kéo kỷ niệm xưa.

Nơi đây, có cầu gỗ chìa ra một mé ao, dùng để vo gạo, rửa ráy. Gà, vịt, heo, bò, chó, mèo, thả lung tung. Con heo mọi mẹ mập híp mắt, lùn xủn, lê cái bụng phệ, oằn lưng đi từng bước chậm rì. Nó đến cọ thân vào cột nhà sàn kêu kẽo kẹt. Dấu chân nho nhỏ lún sâu, và hai hàng vú xệ quệt xuống đất, tạo thành những vệt lằn dài cong cong. Bầy con nhỏ lí tí, lủn chủn, ủn ỉn, ụt ịt, éc éc, lăng quăng te te chạy theo mẹ. Mỗi căn lều lá, có một phần cuộc sống riêng. Suy tư buồn vui đau khổ riêng. Cùng những run sợ âu lo chiến tranh: Thì chung tất cả.

Ông tộc trưởng ở trần, bụng quấn xà cạp. Nước da đen bóng như gỗ lim, tay chân ông chai cứng, sần sùi cùng nếp nhăn gợn lăn tăn li ti trên mặt, thì không làm sao đếm xuể tháng năm. Người ta gọi ông là “Già Làng”, già khằn khú đế, sống dai nhách.

Họ hong lửa trong cái vòng tròn mù mịt khói. Họ dùng vồ gỗ để đập thịt trâu bò nướng, cho mềm. Nướng nhiều xâu thịt heo rừng, miếng thịt heo rừng bọng mỡ, xắt to bằng bàn tay đang cháy xèo xèo. Thịt heo rừng ăn vào thấy mùi khai khai và cứng. Thịt không ngon ngọt và mềm như thịt heo nuôi trong chuồng. Họ cắm những thanh triêm vào chóe rượu cần, dùng cây xiên sắt đen đen xâu những con cá còn nguyên vảy nướng trên lửa. Xiên bắp đá trên cây que đen thui, nướng chim rừng, gà rừng, nai khô, đã săn bẫy.

Theo từng hồi trống bập bùng, các chàng trai trở lại thời nguyên thủy nhảy múa, chờ các cô gái xuất hiện. Có chàng cài lông chim trên đầu, mặc sơ mi, thắt cà vạt mà lại đóng khố màu, nhiều tua lủng lẳng sau mông. Họ mang giày đinh. Trông thật "tếu ngạo giang hồ"! Tức cười. Những ông già vẽ mặt nạ, cà răng căng tai, tay chân đeo đầy còng đồng, còng bạc, miệng ngậm ống vố dài cong cong như dấu ngã, bập bập điếu thuốc mù khói. Họ thích thú cài mỗi bên một điếu thuốc thơm trên vành tai, do Đan mời. Lâu lâu họ lấy xuống, hít ngửi rồi lại dắt lên chỗ cũ. Họ nhổ toẹt ra đất bãi nước bọt, trông đến gọn gàng khéo léo.

Có “cô tân thời” mặc chiếc váy đầm sặc sỡ, loại hàng Mỹ Viện Trợ, ở trần, cổ đeo nhiều hạt cườm. Họ nhảy nhót vui đùa thỏa thích, làm long lanh những dây cườm nhảy lung tung, trên bộ ngực trần lắc lư, căng cứng, tự nhiên mà không khêu gợi dâm đãng. Các cô gái nhảy mấy điệu dân tộc, với tràng cười hú phóng khoáng, tự nhiên không ngượng ngùng che dấu. Trống đánh mạnh, phèng la, tù và, lục lạc chiêng trống dập dồn. Họ càng hú, càng cười, càng reo hò, phóng đãng theo mấy vò rượu cần cạn sạch bách, sạch trơn. Họ uống rượu như tu nước lạnh. Họ ăn con cá, con gà đen thui ngồm ngoàm. Vừa ăn họ vừa la hét, cười gào, hú họa sảng khóa. Tột cùng cơn vui chân phương vô tư rất hồn nhiên.
Sau khi chào bốn người, ông tộc trưởng dẫn họ đến các chàng trai. Trúc, Trọng, nhanh nhẹn chào đám đông, đứng xớ rớ một hồi, rồi hai anh chị lủi đi lúc nào. Đan và Hoài bị bao bọc giữa vòng vây.

Ba chàng trai trẻ lực lưỡng, đến trước mặt Đan và Hoài. Họ là mấy chàng trai ế vợ, hoặc còn "ở giá", đang chờ bạn đời đến rước về làm chồng. Một chàng trai nói tiếng Việt khá rành, (mà theo Đan, anh ta đang đi học dưới Tỉnh Quảng Ngãi) nhìn hai người tỉnh bơ:

- Savadi Chào cô. Tui là Cà Kré Xiu. Cô đẹp lắm, mà không nhảy hay. Không mở áo. Không hút thuốc ngọn. Không uống rượu cần. Làm sao cô hòa đồng với dân tui, cưới được bạn mình. Hớ.
- Tôi xin lỗi... Không...
- Không có chi. Cô đi đi. Tụi tui không ưng. Tui không bỏ chỗ ni, đi theo cô về nơi xe điện, nhà to, thêm chóng mặt.
- À phải... Anh thích ở lại buôn làng nầy hả?
- Ơi. Cô biết được cái ruột của tui. Hớ?
- Vậy thì tôi đi về.

Đám người dạt ra hai bên, đứng nhìn theo Đan, Hoài, dần khuất qua khúc ngoặt. Tiếng trống, tù và, phèng la, xa dần, xa dần... Nhỏ dần. Hoài cười khúc khích, trêu ghẹo:

- Có sơn nữ nào, dạm hỏi anh chưa?

Đan nheo mắt cười, đùa:
- Tối ngày đội nón sắt, đóng mặt nạ, ai chịu anh... Em thấy họ cả tin, chân chất, mộc mạc không? Đặc biệt là sự tự do, phóng khoáng vô cùng giữa thiên nhiên. Vượt lên mọi bạo lực hung tàn. Chỉ vì họ thấu hiểu giá trị tự do cao quý. Họ thích cuộc sống đời du mục, phiêu lãng. Khốn khổ cùng cực đắng cay, cổ cày vai bừa, chiến tranh tàn sát, không làm họ chối bỏ, lìa xa cội nguồn. Ngược lại họ càng quyến luyến, yêu mến, nhớ thương quê cha đất tổ hơn.

Đỉnh sương mù mòng mọng quyện lẫn vầng mây lãng đãng, làm trắng xóa khu Ô ChaiTrăng lá lúa như chiếc thuyền nan bồng bềnh, nhấp nhô trên không trung bàng bạc. Thấp thoáng đó đây, trên bầu trời nhá nhem ven đêm vừa lấp ló dăm ba ánh sao. Điểm những trái hỏa châu rải rác, đơn điệu. Hỏa châu bừng nở hoa quỳnh dao thoáng chốc trên lưng trời, rồi tắt ngủm.

Cái lạnh cuối thu mơn man ve vuốt, len lén bay về trong gió, thoang thoảng mùi thơm hương hoa núi đồi trầm mặc. Làm lâng lâng, tê lê bờ môi vụng dại Hoài run run, lạnh lạnh đôi gò má. Sương muối đã thấm ướt bao mái đầu ngả bụi rừng trường sơn.


Chương   21

 BÊN DÒNG SUỐI CHAO ĐẢO

Sáng hôm sau, đơn vị tác chiến ăn mừng chiến công anh dũng Quân Đội Cộng Hòa Việt Nam. Như J. César sau trận Pharsale. Như Napoléon sau trận Austerliz vậy.

Dù rằng chiến tranh đang vở bung ra, nhiều cột khói lửa đỏ rực khắp nơi trên đất nước. Thì nơi nầy, dàn nhạc trỗi dậy âm giai tuyệt diệu bổng trầm. Xóa nhòa mọi bi thương đau khổ cuộc đời, qua các tiết mục: Tuyên dương. Liên hoan. Văn nghệ; cho người lính quên đi gian khổ nhọc nhằn. Có khi chết chóc đang gần kề sự sống.

Dù nhắm mắt lại, Đan vẫn thấy hỏa châu thả xuống góc đồi. Giao tranh bi thiết, bàng hoàng kinh dị. Nơi cường độ hung hăng chém giết lên tột đỉnh. Tàn ác xâu xé cuồng loạn nhất. (hơn cả cảnh Mục Liên Thanh Đề đi thăm địa ngục).
Tiếng mưa đỗ trên lá rào rào, không thể xóa hình ảnh anh Nguyễn văn Năm, lính Thủy Quân gục xuống hố cá nhân, anh giống thân cây kiền kiền bị đốn ngã. Khi đại liên 12 ly 7, quạt rát bỏng ù tai làm tan nát lòng người. Đan phải giương to đôi mắt kinh hoàng, chứng kiến đồng bạn kêu gào, co giật cơn hấp hối, xuôi tay chấm dứt cuộc sống. Dẫu dần dần hơi quen, chạm trán, va mặt với tận cùng chiến tranh gian nguy và tàn khốc. Cường độ đớn đau tăng mãi trong đời. Khiến Đan càng cúi đầu, đón nhận tang thương người khác. Họ luôn vò xé, oán trách con người thâm hiểm nầy, và con người ác độc kia.

Đan nghiền nát cục sạn đắng cay trong hai kẽ răng, cố nuốt vào lòng. Nhưng cục sạn không trôi vào bao tử, mà dội ngược vào tim anh đầy thống khổ, chạy lên đầu óc đau buốt. Như xác định sự hiện hữu của mình. Đan tha thiết mong đóng góp một phần đời bé nhỏ, cho người thân quen vui sống chút tháng ngày an thư. Chứ anh nào muốn phải làm chứng nhân, lù đù chứng kiến cảnh cuồng nộ, thống khổ, bi lụy khốn cùng, trào máu mắt nầy!

Giữa lúc chiến tranh thực sự dày xéo lên quê hương. Ngoài xa thật xa xa kia, từng hồi đạn và trái phá rền vang ầm ầm bùm bùm bùm... Oằn oằn oằn... Pằng pằng pằng... Tạch tạch tạch... làm rung chuyển dãy nhà tôn kêu rè rè. Khói lửa cuồn cuộn bốc lên từ góc biên cương không xa lắm. Thế mà nơi đây, người ta cất cao tiếng hát: "Ngựa phi, ngựa phi đường xa. Tiến lên đường cát trắng trắng xóa...” Hoặc hát bài ca than khóc tình yêu..."yêu ai yêu cả một đời... Lòng vẫn biết nếu yêu rồi một ngày sẽ đến với đớn đau..."  Thật chả ra làm sao cả!

Hoài tựa đầu vào góc tường, một tay chống lên bàn, kê dưới cằm, nhìn thiên hạ hoan ca. Đan ngồi kề bên, với khói thuốc không đầu lọc mơ màng. Hai người hợp nhau ở chỗ ít nói, trầm tư giữa nơi đông người. Mãi lâu, Hoài hơi nghiêng về bên vai anh, khe khẽ:

- Trông anh có vẻ buồn.
- Vương Tích đời Đường nói: "Mặt nhìn ai nấy, đều say cả. Còn một mình ta, nở tỉnh sao". Anh buồn vì anh say. Hoài biết anh say gì không? Không hả? Say men đời đó em.

Hoài kính trọng Đan, một cảm tình thân ái, rụt rè, bẽn lẽn. Anh có phong thái ung dung, điềm đạm, trầm tư và nhã nhặn quá dỗi.

Sau giờ liên hoan, Hoài chia tay anh về nghỉ bên lều trại của mình. Nàng nhận lời cùng Đan, chiều nay sẽ cùng nhau đi ngắm hoàng hôn lặn bên bờ suối, nơi miền núi ngút ngàn thâm u.

Đan vào cổng trại, kịp lúc Hoài vừa bước ra. Hai người chầm chậm dạo bước bên nhau. Họ vòng theo con đường mòn đất đỏ ngoằn ngoèo, dọc những hàng cây sim tim tím mọc chằng chịt. Con đường dẫn đến một bờ đất cỏ xanh um, mấy tảng đá to thoai thoải nhô mình lên khỏi mặt nước. Ráng chiều lượn khúc giữa hai bờ lau sậy lô nhô. Dòng suối lặng lẽ trôi, lấp lánh, êm đềm uốn mình trong nắng vàng hanh hanh. Cảnh vật nơi đây thật đẹp, như trong bức tranh vân thủy: Núi cao chót vót. Mây trắng bay bay từng đám dày, giống đàn cừu nhấp nhô cúi đầu lủi thủi gặm cỏ trên núi. Vực sâu thăm thẳm, hoang vu. Dây leo chằng chịt những thân cổ thụ sần sùi, già nua mà sum suê. Chim hót lảnh lót, vượn hú kêu đàn đìu hiu. Bầy sóc tung tăng. Khỉ nhí nhảnh chí chóe, líu ríu gọi nhau. Quạ nhốn nháo đập cánh đen, vụt bay đi, kêu:

- Quạ! Quạ!

Ngồi xuống mỏm đá rất sạch, gần bên tàng cây cổ thụ rợp bóng mát, hai anh em trao đổi về sở thích, sở trường, cùng lập trường, hoài bão. Hoài nói lên cảm tưởng của mình, khi quen Đan:

- Anh Đan à! Em thấy quý mến người lính, lội qua sông Nghĩa Phú ghê nơi. Bởi vì "ảnh" chỉ đơn thuần, là người lính. Thấy em, ảnh nhớ người yêu rất xa.
- Thời vàng son ấy, chỉ âm vang trong ngăn kéo kỷ niệm. Em còn muốn hỏi anh điều gì nữa! Hở! Hương Hoài?
- Thật ra, em muốn hỏi nhiều về anh. Để làm gì, em không biết. Nhưng vẫn thắc mắc tự hỏi: Giờ nầy, ở bên Tây, chị Đan và cậu tí hon làm gì nhỉ?
- Cám ơn em. Em chu đáo quá. Rất tiếc anh còn độc thân. Anh... kể em nghe câu chuyện nầy nhe: Ông vua Midas là vị Hoàng Đế oai phong. Muôn dân quý trọng. Buồn một nỗi là vua có dị tướng. Không ai biết. Chỉ có anh thợ hớt tóc biết. Sợ mất đầu, không dám nói với ai, anh thợ bứt rứt khó chịu, tìm chỗ vắng đào hố sâu, ảnh ghé miệng nói:
- "Vua có tai bò".
- Rồi anh ta cười khoái chí. Nghĩ rằng không ai biết. Ngờ đâu, ít lâu sau, tại đó mọc lên bụi tre, hễ có gió là phát ra tiếng "Vua có tai bò". Chẳng bao lâu, khắp cả nước biết điều bí mật của Vua.
- Anh nói có sách, mách có chứng. Em phục.
- Còn từ nào hay hơn. Em cứ đem ra, tán tụng anh đi.
- Anh cho phép?
- Bởi, anh thích nghe em nói chuyện.
- Tại sao?
- Có trời mà biết.
- Em hỏi anh: Anh chưa biết anh, làm sao em biết chuyện vua Midas có tai lừa, tai bò hỉCũng như, chuyện anh còn độc thân, mồ côi vợ đầm, có con tây. Em phải xét lại à nha.
- Anh chịu... phục là em thông minh, khôn ngoan đáo để. Em cứ cho anh vào tròng, rồi trêu ghẹo hoài. Vậy mà, đôi khi thân nhân của em, có thể lo lắng, sợ em sẽ đánh mất cung cách truyền thống gia phong mình. Anh tin em đủ khôn ngoan mà. Anh mừng cho em.
- Bây giờ em thành thật cám ơn anh nhiều.

Đan khẽ ca bài “Quán Nửa Khuya”: Trong đó, anh thích nhất những câu:... Anh là người quân nhân vui gió sương. Câu chuyện tâm tình theo khói sương, tay cầm tay... Dĩ vãng tìm đâu thấy. Như bóng mây chiều, lững lờ theo khói bay. Muốn nhắn cùng thời gian, ai mãi phong trần, đi tìm hương cố nhân...

Ngắt nụ hoa vàng không tên, bên con suối bạc lấp lánh ánh hoàng hôn xoay xoay, lảo đảo dưới lòng suối ôm bờ lau thưa, Đan ân cần trao về Hoài, kèm nụ cười dịu nhẹ, và đôi mắt mùa thu êm đềm sâu lắng của anh. Hoài giơ hai ngón tay ra, run run nhón lấy cánh hoa mềm mại, và đặt cánh hoa dại be bé trong bàn tay khum khum, vỗ về.

- Em có chịu... cho anh xin bàn tay đeo nhẫn, và nốt ruồi duyên, trên mặt bé không nào?
- Í Dzàa... dzạa...

Hoài đỏ mặt, mỉm mỉm cười cười ỏn ẻn, im im cúi nghiêng nghiêng đầu, cô làm bộ nguýt anh một cái thật tình. Ôi! Trời ơi là Trời! Không gian, thời gian, cuộc sống và con người - của giờ phút ngồi bên suối ngày xưa, - không phải là - không gian, thời gian, cuộc sống và con ngươi - của giờ phút ngồi bên suối bây giờ. Nhưng sao họ có cử chỉ đằm thắm, ánh mắt dịu ngọt, đầy xao xuyến, êm ái  giống nhau quá chừng! Hoài choáng váng, như vừa uống chung rượu ngất ngây nồng say.

Một hồi súng lớn ùm ùm ùm... pằng pằng pằng... Tạch đùng... bất chợt ngân vang xuống lòng thung lũng, tiếng rền rền âm vọng kéo dài mãi. Hai người dõi mắt nhìn về phía chân trời xa, hừng hực đám cháy đen nghịt rồi phút chốc bung to, thành nhiều cây nấm khổng lồ đỏ chói.

Nơi thấp nhất ở đường viền chân trời, một áng mây cô lẻ, vừa vàng thau vừa đỏ tím, dần dần tan ra mỏng tanh. Mây trải đều trong cảnh hoàng hôn lảo đảo xoay xoay. Con suối vẫn lấp lánh dưới ráng chiều sáng bạc và hồng thắm.

Thoáng mây ngà xôm xốp bồng bềnh, lồng trong hơi sương bay qua vùng trời miền núi, là nét đan thanh tuyệt diễm cuối cùng trong ngày. Một vài đỉnh núi in hình lên mặt nước, lẩn khuất bên lượn cỏ uốn quanh. Mấy chiếc lá vàng nhẹ nhàng chao đi, đáp hờ trên mặt nước, rồi lững lờ trôi trôi, xoay xoay. Phút chốc bầu trời còn sót lại vầng sáng yếu ớt chập choạng, chờn vờn, ảm đạm và da diết buồn tênh.

Đan đưa Hoài trở về, ăn cơm ở Câu Lạc Bộ. Anh nói về gia đình mình, nói về thời niên thiếu, hiện tại và tương lai. Tuy dè dặt mà chân thành cởi mở. Sau đó anh tiễn Hoài đến cửa doanh trại, khi tiếng kèn tập họp, gọi quân nhân điểm danh, trước giờ đổi phiên gác đầu hôm.

Giọt Sương

Hoàng hôn buông những chiều  nắng nhạt.
Đường em đi, cây dài bóng mát,
mặt hồ xưa long lanh sóng vỗ,
Nắng xiên từng hàng hoa, lác đác.

Nỗi niềm riêng, gợi nhớ xôn xao.
Tình yêu đến, hoài vọng ước ao.
Mùa xuân tới. Đông qua len lén,
Đường anh về, co quanh ngỏ khác.

Hàng thông xanh im phủ bóng mờ.

Giữa cuộc đời cảm thấy bơ vơ...
Trái sầu đông tê tái cõi lòng.

Giếng mắt đẫm giọt sương mòng mọng.

Thác ven rừng uốn lên uốn xuống
Nước rẽ đôi dòng thương ly biệt.
Đường ta về, chả còn tha thiết!
Mối tình xưa, có gì bất diệt?!