I. Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Long vĩ xà đầu khởi chiến chinh
Can qua xứ xứ động đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.
Và trong dân gian cũng truyền khẩu:
Mười người chết bảy còn ba
Chết hai còn một mới ra thái bình.
II. Những lời tiên tri của Đức Mẹ hiện ra tại Fatima:
Năm 1917, Đức Mẹ Maria đã hiện ra nhiều lần với 3 trẻ chăn chiên tại làng Fatima, nước Bồ Đào Nha, trong thời gian từ 13/5/1917 đến 13/10/1917. Ba trẻ chăn chiên đó là Lucia Dos Santos 10 tuổi, Francisco 9 tuổi và Jacinta 7 tuổi. Để giúp nhân loại thoát khỏi các thảm họa của chiến tranh và thiên tai, Đức Mẹ đã nhờ 3 em chuyển đạt 3 mệnh lệnh sau đây:
1. Cải thiện
2. Ăn năn
3. Hãm mình cầu nguyện, lần chuỗi Mân Côi
Đức Mẹ cũng đã đưa ra 3 lời tiên tri:
- Lời tiên tri thứ nhất: Đức Mẹ sẽ đến để đưa Jacinta, Francisco về Trời, còn Lucia Dos Santos thì ở lại. Quả nhiên qua năm sau, hai em Jacinta, Francisco bị cảm cúm rồi qua đời; còn Lucia lớn lên vào tu trong nhà Dòng, thọ 90 tuổi.
- Lời tiên tri thứ hai: Thế chiến thứ nhất này sắp chấm dứt nhưng không bao lâu sẽ có thế chiến thứ hai khốc liệt hơn xảy ra vào triều đại Đức Giáo Hoàng Pio XI.
Lời tiên tri này đã ứng nghiệm: năm 1918 thế chiến thứ nhất chấm dứt. Năm 1922 Đức Pio XI được bầu làm Giáo Hoàng, năm 1939 quân Đức Quốc Xã chiếm Ba Lan mở màn Thế chiến thứ hai đúng vào thời Đức Giáo Hoàng Pio XI.
- Lời tiên tri thứ ba: Chị Lucia giữ kín đến năm 1943 mới vâng lời đề nghị của Đức Thánh Cha chép xuống, Tòa Thánh Vatican sau khi đọc Lời Tiên Tri này đã quyết định giữ kín. Tuy nhiên theo một nguồn tin cho biết Cha Padre Pio, vị Thánh Sống mang 5 dấu danh của Chúa, bạn thân của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII được cho nghiên cứu Lời Tiên Tri Thứ Ba này, nhưng vẫn giữ kín đến năm 1968 thì Cha qua đời. Bản sao Lời Tiên Tri Thứ Ba này lọt vào tay một người bạn của Cha là nhà báo Domenico Del Rio.
Mặc dù Tòa Thánh không xác minh gì về bản sao này có chính xác với bản do chị Lucia viết xuống hay không, nhưng căn cứ trên những điều đã được Đức Gioan Phao Lồ II tiết lộ thì thấy phù hợp với ngôn từ được dùng trong Lời Tiên Tri này. Có lần Đức Thánh Cha nói:
- "Số người thiệt mạng có tới hằng triệu trong mỗi phút."
Sáu tháng sau, vào ngày 13/5/1981, Ngài bị bắn trọng thương tại Quảng Trường Thánh Phêrô bởi một kẻ ám sát.
Và sau đây là nguyên văn Lời Tiên Tri Thứ Ba:
.1. Một cơn dịch tể lớn sẽ giáng trên nhân loại vào Thiên Niên Kỷ này. Không nơi nào trên thế giới sẽ được sống yên ổn. Quỷ Satan sẽ điều khiển những người trong ngôi vị cao nhất để quyết định đường lối của các sự việc.
2. Quỷ Satan sẽ thành công trong việc nhúng tay vào ngôi vị cao nhất trong Giáo Hội.
3. Nó sẽ thành công trong việc xúi giục các nhà bác học, khoa học chế tạo vũ khí hủy diệt một phần lớn nhân loại chỉ trong vài phút, và cũng có khả năng khống chế những người quyền thế để điều động dân chúng và thôi thúc họ sản xuất thật nhiều vũ khí nguyên tử hạt nhân.
4. Thiên Chúa sẽ trừng phạt con người thẳng tay hơn cuộc trừng phạt bằng đại hồng thủy. Sẽ đến giây phút tận cùng của một thời gian và tận cùng của mọi sự tận cùng. Kẻ cao cả quyền thế bị tiêu diệt với kẻ bé nhỏ hèn mọn.
5. Trong Giáo Hội sẽ đến giai đoạn thử thách lớn lao nhất. Các Hồng Y sẽ chống đối các Hồng Y, các Giám Mục sẽ chống đối các Giám Mục. Nó sẽ điều khiển các chủ chăn để làm những điều ô nhục trong Giáo Hội.
6. Quỷ Satan sẽ dạo gót trong cảnh mù mịt của các Ngài. Và ở tại La Mã sẽ có sự thay đổi lớn lao . Giáo Hội sẽ bị chìm trong đêm tối và thế giới sẽ rúng động vì sợ hãi.
7. Một cuộc chiến vĩ đại sẽ bùng nổ trong lửa và khói sẽ đổ xuống từ Trời. Nước ngoài đại dương sẽ trở nên mờ mịt và bọt sóng dâng cao khủng khiếp để nhận chìm mọi người.
8. Hằng triệu, triệu người sẽ chết từng giờ. Bất kỳ ai sống sót đều mong được chết. Khắp nơi người ta liếc mắt nhìn thì chỉ thấy sầu thảm, đau khổ, đổ nát trên mọi quốc gia.
9. Thời điểm đang tiến dần lại, vực thẳm mở rộng trong tuyệt vọng. Người lành chết chung với kẻ dữ. Vĩ nhân chết chung với thường dân. Hàng Giáo Phẩm chết chung với tín đồ. Kẻ cầm quyền chết chung với thần dân.
10. Chết chóc tràn lan khắp nơi vì những lỗi lầm vi phạm bởi những kẻ ngông cuồng điên dại và bè lũ của Satan. Chúng chỉ muốn thống trị thế giới.
11. Sau cùng những người sống sót sẽ có dịp chúc tụng Thiên Chúa và tôn vinh danh Ngài. Họ sẽ phụng thờ Ngài giống như lúc thế gian chưa quá tội lỗi.
Theo tác giả Vân Hà, mặc dù Tòa Thánh Vatican không chính thức phổ biến Lời Tiên Tri Thứ Ba vì sợ làm hoang mang dân chúng, nhưng gần đây Đức Gioan Phaolồ II đã đưa ra một chương trình canh tân để đón mừng tân Thiên Niên Kỷ thì cũng là một cách để thức tỉnh nhân loại.
III. Những lời tiên tri của chiêm tinh gia Juselino:
Ông Juselino sinh năm 1960, tại nước Ba Tây, là giáo sư, đang sống thanh đạm với1 vợ và 4 con gái, là người thẳng thắn, thông minh. Từ năm lên 9 tuổi (1969) ông bắt đầu có sự tiên tri từ giấc mộng.
Trong một giấc mộng, ông có thể trông thấy 3 sự kiện, nhiều nhất là 9 sự kiện. Lúc 19 tuổi, ông gặp nhà tiên tri nổi tiếng Francisco Shabiz - người đã được 2 lần được đề nghị tranh giải Nobel. Từ đó đến nay, tổng số các sự kiện mà ông Juselino dự đoán đã lên đến hơn 80 ngàn. Thường thường ông phải mất từ 3 đến 4 giờ mỗi ngày để sắp xếp các hồ sơ tiên tri này: ghi rõ ngày tháng năm, đăng ký các lời giải đoán trong bưu điện, chi trả nhiều tiền cho các dịch vụ đăng ký, đăng bộ, gởi thư, đánh fax, gởi điện tín... Nếu trong giấc mộng, ông thấy được những chuyện mà đối tượng là một cá nhân thì ông chỉ nói riêng với người đó thôi, nếu là nguyên thủ, hay người có địa vị, nổi tiếng trong xã hội, ông còn thông báo thêm cho các cơ quan sở tại.
Xin ghi nhận một vài tiên tri:
- Vào ngày 4/3/1997 từ sở bưu điện Brazil, ông gởi 1 thư cảnh cáo cho công nương Dianna: “Tôi nhận được tin tức từ Thượng Đế cho biết rằng có người ác ý sẽ thiết kế mưu sát Ngài bằng một tai nạn xe cộ. Bảy vị Thiên sứ đã nói với tôi rằng trong việc xe cộ này, sanh mạng Ngài sẽ bị mất đi. Các chuyên gia sẽ cho là một tai nạn bình thường, nhưng họ hoàn toàn trật lất hết. Kẻ hung thủ sát nhân là người thân cận Ngài. Việc này sẽ xảy ra trước năm 2000.” Ông cũng gởi thư cảnh cáo này đến các tờ báo lớn nhất ở Anh quốc như Times, Daily Telegrah, Gardian, nhưng không được đăng tải. Quả thật đúng 5 tháng sau, vào tháng 8/1997 tai nan# xảy ra, chính quyền Anh xem việc này là một tai nạn xe cộ.
- Ngày 28/10/1989, ông gởi Tổng thống Mỹ, Bush cha và Bill Clinton; Lãnh sự quán Anh ở Mỹ cũng nhận được thư cảnh cáo này (ngày 26/10/1989). Thư này có đăng ký tại Panama trong văn phòng thị thực của ông Klicheeba. Nội dung thư nói rằng vào năm 1993, Trung tâm Mậu dịch Thế giới sẽ bị công kích lần thứ nhất. Lần công kích lần thứ hai sẽ xảy ra vào ngày 11/9/2001. Sau đó sẽ bùng nổ cuộc chiến tranh với A Phú Hãn và với Iraq. Iraq bị thua trận, Saddam Hussein sẽ chạy đến trung bộ của thành phố Dawool để lẩn trốn trong một hầm trú ẩn nằm sát bờ sông Chigulus, trên hầm có một miếng gỗ đậy và chỗ ra vào miệng hầm có những rác rưởi. Trong thư gởi Bill Clinton, ông viết: “Hai tòa nhà sẽ bị một quả cầu bao vây. Có thể sẽ có người xem đó là một việc giỡn chơi, không cho đó là một việc thành thực, vì thế tôi mới gởi thư đến các tờ báo Mỹ để hy vọng được đăng tải." Ngoài ra, ông còn gởi đến các nhà báo, nhưng không được đăng. Tại Miami nhà báo Helleroot gởi thư trả lời cho ông như sau: “Cơ quan thông tin của chúng tôi có nhận thư của ông ngày 26/10/1989 là ông có đoán Trung tâm Mậu dich ở Manhantan (NY) sẽ bị khủng bố vào ngày 11/9/2001, chúng tôi đánh giá cao sự tiên đoán này. Sau đó ông cũng có dự đoán sẽ có chiến tranh với Iraq và Saddam Hussein sẽ chạy vào trung bộ Iraq tên là Dawool. Nhưng chúng tôi không dám tiết lộ vì sợ rằng mang sến sự khủng hoảng trong quần chúng?..." Quả đúng như thế: 3 năm sau, vào ngày 26/2/1993 một vụ nổ ở bãi đậu xe làm khá nhiều người chết, và 12 năm sau sự kiện 911 xảy ra. Sau đó quân Mỹ tấn công A Phú Hãn, rồi Iraq, Tổng thống Iraq chạy trốn, sau bị bắt dưới hầm, và rồi bị treo cổ.
Lá thư thứ ba gởi đến đài phát thanh Pass FM ngày 29/5/2006 có ghi: “Quốc hội Iraq phán Saddam Hussein có tội có thể bị tử hình vào ngày 30/12/2005. Toàn quốc Iraq vì việc này sẽ trở thành sự đấu tranh và cướp đi nhiều sanh mạng.”
- Về cơn sóng thần (tsunami) tại đảo Sumatra, Indonésia, ông có gởi thư cảnh cáo đến đại sứ quán Ấn Độ tại Ba Tây 8 năm trước: “Vào ngày 26/12/2004 ở Indonésia, đảo Sumatra, tỉnh Ache sẽ phát sinh động đất với cường độ 8.9 Soeharto.” Vào ngày 30/4/1997 ông gởi cho Tổng thống nước Indonésia 1 lá thư, được phúc đáp như sau: “Có rất nhiều sự việc mà chúng tôi không thể không làm, nhưng chúng tôi không thể giải quyết những việc chưa phát sinh.” Quả thật vào lúc 7 giờ ngày nói trên, trận động đất tạo cơn sóng thần cao trên 10m đã nhận chìm trên 100 nghìn người tại Indonesia.
- Năm 2010: tại nhiều quốc gia ở Phi Châu, nhiệt độ sẽ lên cao đến 58 độ Celcius làm khan hiếm nước nghiêm trọng. Vào ngày 15/6 thị trường Stock Dow Jones của New York sẽ bị sụp đổ, kinh tế toàn cầu rơi vào tình trạng nguy hiểm.
- Năm 2011: Phương pháp trị liệu ung thư thành công, nhưng có một bệnh lạ xuất hiện, người nhiễm bệnh sẽ chết sau 4 giờ.
- Năm 2013: Tại quần đảo Canary của Tây Ban Nha từ ngày 1 đến ngày 25/11 bộc phát núi lửa, địa chấn xảy ra, tiếp theo có một cơn sóng thần cao đến 80m. Tại Mỹ và Ba Tây cũng chịu ảnh hưởng của cơn sóng thần này, nước biển rút xuống 6m, chim chóc bay đầy bầu trời.
- Năm 2014: có 1 tiểu hành tinh bay đến gần, sẽ có sự va chạm với địa cầu, có thể mang đến sự diệt vong nhân loại.
- Năm 2015: trong tháng 11, nhiệt độ trung bình của trái đất sẽ lên tới 59 độ Cecius, thế giới phát sinh đại loạn, nhân loại trên toàn cầu bị rơi vào khủng hoảng, nhiều người bị nóng mà chết.
- Năm 2016: vào trung tuần tháng 4, Typhoon (bão gió) sẽ phát sinh tại Trung Quốc, một số thành phố lớn bị phá hoại.
- Năm 2026: Vào tháng 7 tại San Francisco sẽ xảy ra 1 cuộc động đất vô tiền khoáng hậu. Đất tại lằn nứt Saint Antonio bị phá làm tiểu bang CA bị sụp đổ, có nhiều núi lửa phát sinh, các cơn sóng thần cao trên 150m.
Với khả năng nhìn thấy tương lai nhân loại và địa cầu nếu đúng, ông Juselino không phải là người bình thường.
IV. Những lời tiên tri ghi trong Kinh Thánh:
Trong Kinh Thánh, cơn đại nạn tức là "ngày của Chúa", "ngày đó" hay "ngày lớn" đôi khi được dùng để chỉ sự phán xét trong hàng loạt những biến cố tận thế. Kinh Thánh không cho biết đích xác ngày giờ Chúa trở lại (tái lâm), tuy nhiên những dấu chỉ báo trước đã được ghi khá rõ ràng trong Ma-thi-ơ, Chúa nói đến tình trạng bất ổn trong thiên nhiên và trên thế giới như: động đất, dịch lệ, chiến tranh, đói kém, Cơ Đốc nhân sẽ bị bội phản bách hại; xuất hiện nhiều kẻ thờ hình tượng, tiên tri giả:
- “Ngài đương ngồi trên núi Ô-li-ve, môn đồ tới riêng cùng Ngài, và nói rằng: Xin Chúa phán cho chúng tôi biết lúc nào những sự đó sẽ xảy ra? và có điềm gì chỉ về sự Chúa đến và tận thế. Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hãy giữ kẻo có kẻ dỗ dành các ngươi. Vì nhiều người sẽ mạo danh ta đến mà nói rằng: Ta là đấng Christ; và sẽ dỗ dành nhiều người. Các ngươi sẽ nghe nói về giặc và tiếng đồn về giặc: hãy giữ mình, đừng bối rối, vì những sự ấy phải đến; song chưa là cuối cùng đâu. Dân này sẽ dấy lên nghịch cùng dân khác, nước nọ nghịch cùng nước kia; nhiều chỗ sẽ có đói kém và động đất. Song mọi điều đó chỉ là đầu sự tai hại. Bấy giờ người ta sẽ nộp các ngươi trong sự hoạn nạn và giết đi; các ngươi sẽ bị mọi dân ghen ghét vì danh ta. Khi ấy cũng có nhiều kẻ sẽ sa vào chước cám dỗ, phản nghịch nhau, và ghen ghét nhau. Nhiều tiên tri giả sẽ nổi lên và dỗ dành lắm kẻ. Lại vì cớ tội ác sẽ thêm nhiều, thì lòng yêu mến của phần nhiều người sẽ nguội lần. Những kẻ nào bền chí cho đến cuối cùng, thì sẽ được cứu. Tin lành nầy về nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất, để làm chứng cho muôn dân. Bấy giờ sự cuối cùng sẽ đến." (Ma-thi-ơ: đoạn 24, từ câu 3 đến câu 14)
Qua thiên niên kỷ thứ ba, tình trạng bội đạo trong các Giáo hội Cơ Đốc giáo càng trầm trọng, nhiều tà giáo nổi lên. Thế lực của sự tối tăm đã ra sức vận động loại bỏ các ảnh hưởng của Kinh Thánh và Cơ Đốc giáo khỏi đời sống chính trị, xã hội như: loại bỏ việc cầu nguyện nhắc đến danh Chúa trong các buổi lễ tại nhà trường; vận động quyền phá thai, chấp nhận hôn nhân đồng tính; làm bại hoại luân lý... là những hành vi trái với Kinh Thánh:
- “Vả, Đức Thánh Linh phán tỏ tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ sẽ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỷ dữ,” (I Ti-mô-thê 4:1)
- "Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời” (II Ti-mô-thê: đoạn 3 từ câu 1 đến câu 4)
- "Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn." (I Ti-mô-thê: đoạn 3, câu 10)
Và có đầy dẫy những kẻ sống dâm loạn buông tuồng, ham mê tửu sắc, háo danh, tôn thờ hình tượng, giả hình:
- "Trong bọn họ có kẻ lẻn vào các nhà, quyến dụ lòng những người đàn bà mang tội lỗi, bị bao nhiêu tình dục xui khiến; vẫn học luôn mà không hề thông biết lẽ thật được." (II Ti-mô-thê: đoạn 3 câu 6, 7)
- “Họ làm việc gì củng cố để người ta thấy, mang cái thẻ bài da cho rộng, xủ cái tua áo cho dài, ưa ngồi đầu trong đám tiệc, thích ngôi cao nhất trong nhà hội, muốn người ta chào mình giữa chợ, và ưng người ta gọi mình bằng thầy.” (Ma-thi-ơ: đoạn 23, từ câu 5 đến câu 7)
- "Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! vì các ngươi rửa bề ngoài chén và mâm, nhưng ở trong thì đầy dẫy sự ăn cướp cùng sự quá độ... vì các ngươi giống như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy. Các ngươi cũng vậy, bề ngoài ra dáng công bình, nhưng ở trong thì chan chứa sự giả hình và tội lỗi." (Ma-thi-ơ: đoạn 23, câu 25, 26, 27, 28)
- "Vì mọi dân tộc đều uống rượu dâm loạn buông tuồng của nó, vì các vua thế gian đã cùng nó phạm tội tà dâm, và vì các nhà buôn trên đất đã nên giàu có bởi sự quá xa hoa của nó." (Khải Huyền: đoạn 18, câu 3)
Dấu hiệu rõ ràng nhất về Ngày Chúa tái lâm là sự việc trở về quê hương tái lập quốc của dân Do Thái:
- “Trong ngày đó, Chúa còn đặt tay một lần nữa đặng chuộc dân sót của Ngài, tức là kẻ sót lại bởi A-sy-ri, Ê-díp-tô, Ha-mát cùng các cù lao biển. Chúa sẽ dựng một cây cờ cho các nước, nhóm những người Y-sơ-ra-ên bị đuổi, thâu những người Du-đa lưu lạc từ bốn góc đất.” (Ê-sai 11: 11,12)
Trong lịch sử, người Do Thái đã một lần lưu lạc và hồi hương vào năm 538 trước Tây lịch. Đền thờ tại thành Giê-ru-sa-lem do vua Hê-rốt xây trong 46 năm, vô cùng tráng lệ, nhưng Chúa đã tiên báo rằng:
- "Quả thật ta nói cùng các ngươi, đây sẽ không còn một hòn đá nào chồng trên một hòn khác mà không bị đổ xuống." (Ma-thi-ơ: đoạn 24, câu 2)
Sự thật đã xảy ra đúng như thế. Vào năm 67 sau TL, người Do Thái nổi dậy tại Palestine, hoàng đế La Mã lúc đó là Neron cử đại tướng Vespasian đem quân bao vây thành Giê-ru-sa-lem, vua Neron băng hà, sau đó tướng Vespasian được quân đội và Nghị viên suy tôn, trở về làm vua, để con là tướng Titus ở lại, thành bị vây trong 143 ngày thì thất thủ, hơn 600 ngàn người Do Thái bị giết, hàng ngàn người khác bị lưu đày, quân La Mã đốt thành, thiêu hủy đền thờ, vàng bọc trong tường đền thờ chảy ra, từng tảng đá bị cạy lên để tìm vàng, đền thờ bị san bằng đến nỗi không còn một hòn đá nào chồng trên một hòn đá nào đúng như lời Chúa đã báo trước. Kể từ đó nước Do Thái bị xóa tên, người Do Thái lại lưu lạc khắp thế giới, "bốn góc đất". Nhưng dù lưu vong ở nước nào, họ cũng quần tụ lại với nhau thành những cộng đồng Do Thái chặt chẽ để bảo tồn văn hóa và tín ngưỡng. Từ thế kỷ 11, Palestine bị Thổ Nhỉ Kỳ cai trị, đến TK 14, triều đại Ottoman của Thổ chiếm hầu hết vùng bán đảo Balkan. Đến đầu TK 19, sau gần 19 thế kỷ, xuất hiện phong trào Si-ôn chủ trương tìm cách lập một mảnh đất dung thân tại Palestine cho người Do Thái. Khi đại tướng Anh là Allenby chiếm được Palestine trong thế chiến thứ nhất, dẫn đến một văn kiện do huân tước Balfour soạn thảo đã ghi như sau:
“ Chính phủ Hoàng Gia ủng hộ việc tạo lập một lãnh thổ tại Palestine cho người Do Thái và sẽ dùng mọi nỗ lực để thực hiện mục tiêu này.”
Sau gần 2 thập niên, dân Do Thái sống tại Palestine đã tăng nhanh. Năm 1882 trong 624.000 dân Palestine có 24.000 dân Do Thái, năm 1914 có 85.000, năm 1936 có 404.000 (năm 1948 lập quốc có 650.000 người Do Thái). Năm 1947, Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu (có 33 phiếu thuận, 10 phiếu chống, 10 phiếu vắng mặt) quyết định kế hoạch chia đất: Những vùng có dân Do Thái đông nhất ở Palestine sẽ được chỉ định thuộc người Do Thái, trong khi những vùng còn lại là của Jordan. Lập tức người Á Rập hình thành một kế hoạch tấn công Do Thái quy mô suốt 6 tháng, đến ngày 14/5/1948 Do Thái toàn thắng tuyên bố độc lập theo kết quả bỏ phiếu nửa năm trước của Liên Hiệp Quốc. Người Á Rập vẫn tuyên bố “tống khứ bọn Do Thái xuống Địa Trung Hải”, quân Á Rập từ Ai Cập, Jordan, Syria, Li-băng và Iraq tiến vào Palestine, nhưng bị đẩy lui và bị mất nhiều phần đất. Sau khi ngưng chiến, biên giới Do Thái mở rộng hơn, đến cuộc chiến tranh 6 ngày năm 1967, thì Do Thái đã chiếm được hơn 12.000km2 đất đai, quan trọng nhất là cổ thành Giê-ru-sa-lem, bức tường than khóc và cả khu vực đền thờ.
Thật khó tưởng tượng nổi một quốc gia đã bị xóa tên gần 19 thế kỷ, dân chúng tan lạc khắp “bốn góc đất” chịu nhiều đau thương thống khổ (bị Đức quốc Xã sát hại gần 6 triệu người trong các lò sát sinh), vậy mà họ vẫn tái lập được quốc gia, đúng như lời tiên tri đã ghi trong Kinh Thánh.
Và đây cũng chính là một trong nhiều dấu hiệu, điềm báo trước về tận thế và ngày tái lâm của Chúa Giê-su đã gần kề.
Chi tiết về tận thế và ngày tái lâm của Chúa Giê-su sẽ được trích dẫn nguyên văn trong Ê-sai; Xa-cha-ri; II Phi-e-rơ; Khải Huyền sau đây:
- “Xảy ra trong ngày đó, ta sẽ khiến Giê-ru-sa-lem làm hòn đá nặng cho các dân tộc. Phàm những kẻ mang nó sẽ bị thương nặng; và mọi nước trên đất sẽ nhóm lại nghịch cùng nó. (Xa-cha-ri: đoạn 12, câu 3)
- “Xảy ra trong ngày đó, ta sẽ tìm cách hủy diệt hết thảy những nước nào đến đánh Giê-ru-sa-lem.” (Xa-cha-ri: đoạn 12, câu 9)
- “Trong ngày đó, sẽ có sự thương khóc lớn tại Giê-ru-sa-lem...” (Xa-cha-ri: đoạn 12, câu 11)
- "Nhưng trời đất thời bây giờ cũng là bởi lời ấy mà còn lại, và để dành cho lửa; lửa sẽ đốt nó đi trong ngày phán xét và hủy phá kẻ ác." (II Phi-e-rơ: đoạn 3, câu 7)
- "Song le, ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Bấy giờ các từng trời sẽ có tiếng vang rầm mà qua đi, các thể chất bị đốt mà tiêu tán, đất cùng mọi công trình trên nó đều sẽ bị đốt cháy cả." (II Phi-e-rơ: đoạn 3, câu 10)
- "...trong khi chờ đợi trông mong cho ngày Đức Chúa Trời mau đến, là ngày các từng trời sẽ bị đốt mà tiêu tán, các thể chất sẽ bị thiêu mà tan chảy đi." (II Phi-e-rơ: đoạn 3, câu 12)
- "Các ngươi khá than khóc! Vì ngày của Đức Giê-hô-va đã gần: ngày đó đến như cơn tai nạn đến bởi Đấng Toàn năng. Vậy nên mọi tay đều yếu đuối, lòng người đều tan chảy. Chúng đều kinh hoàng, bị sự đau đớn thảm sầu bắt lấy, quặn thắt như đàn bà đương đẻ; hắc hơ hắc hãi nhìn nhau, mặt như mặt ngọn lửa!
Nầy, ngày Đức Giê-hô-va đến, là ngày hung dữ, có sự thạnh nộ và nóng giận để làm đất nầy nên hoang vu, và diệt những kẻ có tội khỏi đó. Vì các ngôi sao và các đám sao trên trời sẽ chẳng chiếu sáng nữa; mặt trời mọc lên thì mờ tối, mặt trăng không soi sáng đâu.
Ta sẽ phạt thế gian vì sự độc ác nó, phạt kẻ dữ vì tội lỗi chúng nó, làm cho kẻ kiêu hết kiêu, hạ sự tự cao của kẻ bạo ngược." (Ê-sai: đoạn 13, từ câu 6 đến câu 11)
- “Vậy nên ta sẽ khiến các từng trời rung rinh, đất bị day động lìa khỏi chỗ mình, vì cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va vạn quân, trong ngày Ngài nổi giận dữ... Kẻ nào người ta gặp được sẽ bị đâm; kẻ nào bị bắt sẽ ngã dưới lưỡi gươm. Con trẻ họ sẽ bị đập chết trước mắt họ, nhà bị cướp, vợ bị dâm hãm." (Ê-sai: đoạn 13, câu 13, 15, 16)
- "Sài lang sủa trong cung điện, chó rừng tru trong đền đài vui sướng. Kỳ nó đã gần đến, ngày nó sẽ không dài nữa." (Ê-sai: đoạn 13, câu 22)
- "Đến ngày tận thế cũng như vầy: các thiên sứ sẽ đến và chia kẻ ác với người công bình ra, ném những kẻ ác vào lò lửa; ở đó sẽ có khóc lóc và nghiến răng." (Ma-thi-ơ 13:49)
Trên đây là những nỗi thống khổ chưa từng có mà hầu hết khắp thế giới sẽ gánh chịu.
Sau đây là các biến cố tận thế có tầm mức toàn cầu qua những biểu tượng được nói đến một cách chi tiết trong sách Khải Huyền như tháo các dấu ấn, thổi loa, và trút các bát thạnh nộ xuống đất:
Quyển sách đóng bảy ấn:
- "Rồi tôi thấy trong tay hữu Đấng ngồi trên ngôi một quyển sách viết cả trong lẫn ngoài, có đóng bảy cái ấn." (Khải Huyền: đoạn 5 câu 1)
Chiên Con tức Chúa Giê-su mở 7 ấn:
- "Tôi nhìn xem khi Chiên Con mở ấn thứ nhất trong bảy ấn, thì tôi thấy một con trong bốn con sanh vật nói tiếng như sấm rằng: Hãy đến! Tôi nhìn xem thấy một con ngựa bạch. Người cỡi ngựa có một cái cung; có kẻ ban cho người một cái mão triều thiên, và người đi như kẻ đã thắng lại đến đâu cũng thắng.
Khi Chiên Con mở ấn thứ nhì, tôi nghe con sanh vật thứ nhì nói: Hãy đến! Liền có con ngựa khác sắc hồng hiện ra. Kẻ ngồi trên ngựa được quyền cất lấy cuộc hòa bình khỏi thế gian, hầu cho người ta giết lẫn nhau; và có kẻ ban cho người một thanh gươm lớn.
Khi Chiên Con mở ấn thứ ba, tôi nghe con sanh vật thứ ba nói: Hãy đến! Tôi nhìn xem thấy một con ngựa ô. Kẻ ngồi trên ngựa tay cầm cái cân. Tôi lại nghe ở giữa bốn con sanh vật như có tiếng nói rằng: Một đấu lúa mì bán một đơ-ni-ê, ba đấu mạch nha bán một đơ-ni-ê, còn dầu và rượu chớ đụng đến.
Khi Chiên Con mở ấn thứ tư, tôi nghe con sanh vật thứ tư nói: Hãy đến! Tôi nhìn xem thấy một con ngựa vàng hiện ra. Người cỡi ngựa ấy tên là Sự chết, và Âm phủ theo sau người. Họ được quyền trên một góc tư thế gian, đặng sát hại dân sự bằng gươm dao, bằng đói kém, bằng dịch lệ, và bằng các loài thú dữ trên đất.
Khi Chiên Con mở ấn thứ năm, tôi thấy dưới bàn thờ có những linh hồn của kẻ đã chịu giết vì đạo Đức Chúa Trời và vì lời chứng họ đã làm. Chúng đều kêu lên lớn tiếng rằng: Lạy Chúa là Đấng thánh và chơn thật, Chúa trì hoãn xét đoán và chẳng vì huyết chúng tôi báo thù những kẻ ở trên đất cho đến chừng nào? Có kẻ bèn cho họ mỗi người một cái áo trắng dài; và có người phán rằng phải ở yên ít lâu nữa, cho đến khi được đủ số người cùng làm việc và anh em mình phải bị giết như mình vậy.
Tôi nhìn xem khi Chiên Con mở ấn thứ sáu, thì có một cơn động đất lớn; mặt trời bèn trở nên tối tăm như túi lông đen, cả mặt trăng trở nên như huyết. Các vì sao trên trời sa xuống đất, như những trái xanh của một cây vả bị cơn gió lớn lung lay rụng xuống. Trời bị dời đi như quyển sách cuốn tròn, và hết thảy các núi các đảo bị quăng ra khỏi chỗ mình; các vua ở trên đất, các quan lớn, các tướng quân, các kẻ giàu, các kẻ quyền thế, các kẻ tôi mọi, các người tự chủ đều ẩn mình trong hang hố cùng hòn đá lớn trên núi, chúng nói với núi và đá lớn rằng: Hãy rơi xuống chận trên chúng ta, đặng tránh khỏi mặt của Đấng ngự trên ngôi, và khỏi cơn giận của Chiên Con! Vì ngày thạnh nộ lớn của Ngài đã đến, còn ai đứng nổi?" (Khải Huyền: đoạn 6 từ câu 1 đến câu 17)
- "Khi Chiên Con mở ấn thứ bảy, trên trời yên lặng chừng nửa giờ. Tôi thấy bảy vị thiên sứ đứng trước mặt Đức Chúa Trời, và có người trao cho bảy ống loa." (Khải Huyền: đoạn 8, câu 1, 2)
Bảy vị thiên sứ thổi loa:
- "Vị thứ nhất thổi loa, thì có mưa đá và lửa pha với huyết bị quăng xuống đất. Một phần ba của đất bị cháy, một phần ba loài cây bị cháy, và mọi giống cỏ xanh đều bị cháy." (Khải Huyền: đoạn 8, câu 7)
- "Vị thiên sứ thứ nhì thổi loa, bèn có một khối tựa như hòn núi lớn toàn bằng lửa bị ném xuống biển. Một phần ba biển biến ra huyết, một phần ba sanh vật trong biển chết hết, và một phần ba tàu bè cũng bị hủy hết." (Khải Huyền: đoạn 8, câu 8, 9)
- "Vị thiên sứ thứ ba thổi loa, thì một ngôi sao ở trên trời rơi xuống, cháy có ngọn như một bó đuốc; ngôi sao ấy rơi vào một phần ba các sông lớn và các suối nước. Tên ngôi sao đó là Ngải cứu, một phần ba nước biến ra như mùi ngải cứu, và làm chết mất nhiều người ta, vì đã biến thành ra đắng.” (Khải Huyền: đoạn 8, câu 10, 11)
- “Vị thiên sứ thứ tư thổi loa, thì một phần ba mặt trời bị hại, một phần ba mặt trăng và một phần ba các ngôi sao cũng vậy, hầu cho một phần ba các vì sáng ấy đều bị tối tăm, và hầu cho ban ngày mất một phần ba sáng, và ban đêm cũng vậy,” (Khải Huyền: đoạn 8, câu 12)
- Vị thiên sứ thứ năm thổi loa thì tôi thấy một ngôi sao từ trời rơi xuống đất, và được ban cho chìa khóa của vực sâu không đáy. Ngôi sao ấy mở vực sâu không đáy ra, có một luồng khói dưới vực bay lên, như khói của lò lửa lớn; mặt trời và không khí đều bị tối tăm bởi luồng khói của vực. Từ luồng khói ấy, có những châu chấu bay ra rải trên mặt đất; và có kẻ ban cho chúng nó quyền giống như bọ cạp ở đất vậy. Có lời truyền cho chúng nó chớ làm hại loài cỏ ở đất, thứ xanh và cây cối nào, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn Đức Chúa Trời ở trên trán. Lại cho chúng nó phép, không phải là giết, nhưng là làm khổ những người đó trong năm tháng và sự làm khổ ấy giống như khi bọ cạp cắn người ta. Trong những ngày đó, người ta sẽ tìm sự chết, mà không tìm được; họ sẽ ước ao chết đi mà sự chết tránh xa.
Những châu chấu đó giống như những ngựa sắm sẵn để đem ra chiến trận; trên đầu nó có như mão triều thiên tợ hồ bằng vàng, và mặt nó như mặt người ta; nó có tóc giống tóc đờn bà, và răng nó như răng sư tử, nó có giáp như giáp bằng sắt; và tiếng cánh nó như tiếng của nhiều xe có nhiều ngựa chạy ra nơi chiến trường. Đuôi nó có nọc, như bọ cạp, ấy bởi trong những đuôi đó mà chúng nó có quyền hại người ta trong năm tháng. Nó có vua đứng đầu, là sứ giả của vực sâu, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là A-ba-đôn, tiếng Gờ-réc là A-bô-ly-ôn.” (Khải Huyền: đoạn 9, từ câu 1 đến câu 11)
- "Vị thiên sứ thứ sáu thổi loa, thì tôi nghe có tiếng ra từ bốn góc bàn thờ bằng vàng đặt trước mặt Đức Chúa Trời. Tiếng ấy nói cùng vị thiên sứ thứ sáu đương cầm loa rằng: Hãy cởi cho bốn vị thiên sứ bị trói trên bờ sông cái Ơ-phơ-rát. Bốn vị thiên sứ được cởi bèn được cởi trói, đã chực sẵn đến giờ, ngày, tháng, và năm ấy, hầu cho tiêu diệt một phần ba loài người.
Số binh kỵ mã của đạo quân là hai trăm triệu; số đó tôi đã nghe. Kìa trong sự hiện thấy, tôi thấy những ngựa và kẻ cởi ra làm sao; những kẻ ấy đều mặc giáp màu lửa, màu tía, màu lưu hoàng, đầu ngựa giống đầu sư tử, và miệng nó có phun lửa, khói và diêm sanh. Một phần ba loài người bị giết vì ba tai nạn đó, là lửa, khói, và diêm sanh ra từ miệng ngựa. Vì quyền phép của những ngựa ấy ở nơi miệng và đuôi nó, những đuôi ấy giống như con rắn, và có đầu, nhờ đó nó làm hại người.” (Khải Huyền: đoạn 9, từ câu 13 đến câu 19)
- "Đoạn tôi lại thấy một vị thiên sứ khác sức mạnh lắm, ở từ trời xuống, có đám mây bao bọc lấy. Trên đầu người có mống; mặt người giống như mặt trời và chơn như trụ lửa. Người cầm nơi tay một quyển sách nhỏ mở ra: người để chân hữu mình trên biển, chơn tả mình trên đất, và kêu lên một tiếng lớn, như tiếng sư tử rống; khi kêu tiếng đó rồi thì bảy tiếng sấm rền lên. Lại khi bảy tiếng sấm rền lên rồi, tôi có ý chép lấy, nhưng tôi nghe một tiếng ở từ trời đến phán rằng: hãy đóng ấn những điều bảy tiếng sấm đã nói, và đừng chép làm chi.
Bấy giờ vị thiên sứ mà tôi đã thấy đứng trên biển và đất, giơ tay hữu lên trời, chỉ Đấng hằng sống đời đời, là Đấng đã dựng nên trời cùng cùng muôn vật trên trời, dựng nên đất cùng muôn vật dưới đất, dựng nên biển cùng muôn vật trong biển, mà thề rằng không còn có thì giờ nào nữa, nhưng đến ngày mà vị thiên sứ thứ bảy cho nghe tiếng mình và thổi loa, thì sự mầu nhiệm Đức Chúa Trời sẽ nên trọn, như Ngài đã phán cùng các tôi tớ Ngài, là các đấng tiên tri.
Tiếng mà tôi đã nghe đến từ trời, lại nói cùng tôi và bảo rằng: Hãy đi, lấy quyển sách nhỏ mở ra trong tay vị thiên sứ đương đứng trên biển và đất. Vậy tôi đi tới vị thiên sứ và xin người cho tôi quyển sách nhỏ. Người phán: Ngươi hãy lấy và nuốt đi; nó sẽ đắng trong bụng ngươi, nhưng trong miệng ngươi nó sẽ ngọt như mật. Tôi lấy quyển sách nhỏ khỏi tay vị thiên sứ và nuốt đi; trong miệng tôi nó ngọt như mật, nhưng khi tôi nuốt rồi, thì đắng ở trong bụng. Có lời phán cùng tôi rằng: Ngươi còn phải nói tiên tri về nhiều dân, nhiều nước, nhiều tiếng và nhiều vua nữa." (Khải Huyền: đoạn 10, từ câu 1 đến câu 10“
- “Vị thiên sứ thứ bảy thổi loa, có những tiếng lớn vang ra trên trời rằng: Từ nay nước của thế gian thuộc về Chúa chúng ta và Đấng Christ của Ngài, Ngài sẽ trị vì đời đời.” (Khải Huyền: đoạn 11, câu 15)
- Đền thờ Đức Chúa Trời bèn mở ra ở trên trời, hòm giao ước bày ra trong đền thờ Ngài, rồi có chớp nhoáng, tiếng, sấm sét, động đất và mưa đá lớn." (Khải Huyền: đoạn 11, câu 19)
Bảy bát thịnh nộ của Đức Chúa Trời trút xuống đất:
"Bấy giờ tôi nghe một tiếng lớn từ trong đền thờ ra, phán với bảy vị thiên sứ rằng: Hãy đi, trút bảy bát thịnh nộ của Đức Chúa Trời xuống đất:
Vị thiên sứ thứ nhất đi trút bát mình xuống đất, thì trở nên ghẻ chốc dữ và đau trên những người có dấu con thú cùng thờ lạy hình tượng nó.
Vị thiên sứ thứ hai trút bát mình xuống biển thì biển biến ra huyết, như huyết người chết; phàm sinh vật ở trong biển đều chết hết.
Vị thiên sứ thứ ba trút bát mình xuống các sông cùng các suối nước thì nước biến ra huyết." (Khải Huyền đoạn 16 từ câu 1 đến câu 4)
Vị thiên sứ thứ tư trút bát mình trên mặt trời, thì mặt trời được quyền lấy lửa làm sém loài người." (Khải Huyền đoạn 16 câu 8)
- "Vị thiên sứ thứ năm trút bát mình trên ngôi con thú, nước của nó bèn trở nên tối tăm, người ta đều cắn lưỡi vì đau đớn. Chúng nó nói phạm đến Đức Chúa Trời trên trời vì cớ sự đau đớn và ghẻ chốc mình, và cũng không ăn năn công việc mình." (Khải Huyền đoạn 16 câu 10, 11)
- "Vị thiên sứ thứ sáu trút bát mình xuống sông cái Ơ-phơ-rát; sông liền cạn khô, đặng sửa soạn cho các vua từ Đông phương đến có lối đi được từ miệng rồng, miệng thú, miệng tiên tri giả có ba tà thần ra, giống như ếch nhái. Đó là những thần của ma quỷ, làm phép lạ và đi đến các vua trên khắp thế gian, để nhóm hiệp về sự chiến tranh trong ngày lớn của Đức Chúa Trời toàn năng." (Khải Huyền: đoạn 16 câu 12, 13, 14)
- "Vị thiên sứ thứ bảy trút bát mình trong không khí, thì có tiếng lớn trong đền thờ vang ra, từ ngôi đến mà phán rằng: Xong rồi! Liền có chớp nhoáng, tiếng rầm, sấm vang và động đất dữ dội, động đất lớn lắm đến nỗi từ khi có loài người trên đất chưa hề có như vậy." (Khải Huyền: đoạn 16 câu 17, 18)
- "Mọi đảo đều ẩn trốn, các núi chẳng còn thấy nữa. Những cục mưa đá lớn, nặng bằng một ta-lâng, ở trên trời rớt xuống trên loài người; loài người bèn nói phạm đến Đức Chúa Trời bởi cớ tai nạn mưa đá ấy, vì là một tai nạn gớm ghê.” (Khải Huyền: đoạn 16 câu 20, 21)
Sự phán xét cuối cùng:
- "Bấy giờ tôi thấy một tòa lớn và trắng cùng Đấng đương ngồi ở trên; trước mặt ngài trời đất đều trốn hết, chẳng còn thấy chỗ nào cho nó nữa. Tôi thấy những kẻ chết, cả lớn và nhỏ, đứng trước tòa và các sách thì mở ra. Cũng có mở một quyển sách khác nữa là sách sự sống; những kẻ chết bị xử đoán tùy công việc mình làm, cứ như lời đã biên trong những sách ấy." (Khải Huyền: đoạn 20 câu 11, 12)
- "Đoạn Sự chết và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Hồ lửa là sự chết thứ hai. Kẻ nào không được biên vào sách sự sống đều bị ném xuống hồ lửa." (Khải Huyền: đoạn 20 câu 14, 15)
Trời đất mới:
- "Đoạn, tôi thấy trời mới và đất mới; vì trời thứ nhất và đất thứ nhất đã biến đi mất và biển cũng không còn nữa. (Khải Huyền: đoạn 21 câu 1)
- "Bây giờ thiên sứ nói với tôi rằng: Những lời này là trung tín và chơn thật, Chúa là Đức Chúa Trời của thần các đấng tiên tri, đã sai thiên sứ mình đặng tỏ cùng các tôi tớ Ngài những điều kíp phải xảy ra.
Kìa ta đến nhanh chóng. Phước cho những kẻ nào giữ những lời tiên tri trong sách này!" (Khải Huyền: đoạn 22 câu 6, 7,)
V. Kết luận:
Đứng trước hiện tượng trái đất đang nóng dần lên, môi trường đang bị tàn phá, bà mẹ thiên nhiên đang bị sát hại, vô số vũ khí nguyên tử đủ loại đang chất đầy kho, dù không phải là nhà tiên tri, nhưng chúng ta cũng linh cảm được rằng nhân loại đang đối diện với một đại thảm họa tận thế sẽ xảy ra bởi lửa và thiên tai.
Làm sao có thể cứu quả địa cầu và nhân loại tránh khỏi cuộc đại hủy diệt này?
Khi chép những lời tiên tri về tận thế trên đây, tôi nuôi hy vọng sẽ có một sự thức tỉnh, từ đó người ta sẽ "ăn ngay ở lành" hơn, "từ bi hỉ xả bác ái" hơn, các sự ham muốn về danh vọng, địa vị, sắc dục, dục vọng, kể cả lòng tham, sân, si, tị hiềm, bon chen, ganh ghét, thù hận... sẽ giảm bớt, để sống một cuộc đời mộc mạc, bình dị, đơn giản, chất phác, "kiến tố bảo phác", hướng thiện, hành thiện, bố thí, ăn năn, và cầu nguyện. cho hạnh phúc của người và hòa bình của thế giới trong tình thương bao la.
Chúa dạy:
- "Phước cho những kẻ nào giữ những lời tiên tri trong sách này." (Khải Huyền: đoạn 22 câu 7)
- "Vậy nên, hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em trông đợi những sự đó, thì phải làm hết sức mình, hầu cho Chúa thấy anh em ở bình an, không dấu vết, chẳng chỗ trách được." (II Phi-e-rơ: đoạn 3 câu 14)
Tiến sĩ Leon J. Wood cho rằng việc học hỏi các lời tiên tri ghi trong Kinh Thánh sẽ đem lại nhiều lợi ích lớn lao cho người tin Chúa ít ra là những điều sau đây:
- Làm hưng phấn đời sống tâm linh
- Đem lại thỏa nguyện tinh thần
- Ổn định tâm lý
- An ủi trong cảnh đau buồn
Và sau cùng chúng ta tin rằng chỉ có tình thương mới có thể cứu được nhân loại qua cơn nguy biến:
- "Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như ta ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy." (Giăng 13: 34)
VINH HỒ sưu tầm
25/7/2008
Tài liệu tham khảo:
- Người tiên tri về tương lai của nhân lại trên thế giới - của Trần Phi Cơ sưu tầm đăng trên báo Người Việt News tại Boynton Beach, FL., số 80, ngày 1 tháng 5/2008, trang 113, 114
- Lần đầu tiên, Lời tiên Tri Thứ Ba được tiết lộ - của Vân Hà đăng trên báo Phương Đông tại Lowell, MA, trang 46, 47, số 89 tháng 6/2008
- Kinh Thánh Cựu ước và Tân ước - Vietnamese 53V-UBS-1983-4M
- Lược khảo biến cố tận thế - do hà Huy Việt biên dịch dựa trên bản Anh ngữ: The Bible & Future Events của Tiến sĩ Leon J. Wood - đăng trên báo Thông Công từ số 181 đến 190 (tháng 1&2-2007)
|